ĐỐI
THOẠI NĂM ĐỨC TIN:
CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA
Vấn đề 9: Bạn là người Công Giáo, nghĩa là bạn tin có Thiên Chúa. Vậy bạn hãy
chứng minh có Thiên Chúa đi xem.
1. LỜI CHÚA:
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thinh không kể ra sự nghiệp
tay Ngài” ( Tv 18, 2 ).
2. SUY NIỆM:
Khoa học không bàn đến vấn đề Thiên Chúa, không thể quả quyết có
Thiên Chúa hay không, vì đây không thuộc lãnh vực nghiên cứu tìm hiểu của nó.
Tuy nhiên khoa học vẫn có thể giúp các tín hữu chúng ta dễ dàng nhận biết sự
hiện hữu của Thiên Chúa nhờ những khám phá của nó về vũ trụ thiên nhiên, về
những định luật chi phối hoạt động của các sinh vật và nhất là loài người,
những sự điều tra khách quan về các hiện tượng lạ thường trái với định luật
thiên nhiên cho thấy có sự can thiệp của một quyền lực siêu nhiên… như sau:
PHẦN A. VŨ TRỤ MINH
CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA
a. Đại vũ trụ minh chứng có Thiên Chúa:
Mở mắt nhìn xung
quanh, ta thấy vũ trụ bao la vô hạn. Khoa học giúp chúng ta hiểu rõ các hiện tượng và sức chuyển động trật tự của mọi vật
trong đó. Với con mắt thường, ta có thể đếm được khoảng 5000 ngôi sao lấp lánh
trên bầu trời bao la. Nhưng nhờ viễn vọng kính đặt trên núi Wilson, các nhà
thiên văn học có thể nhìn thấy hơn 200 triệu ngôi sao. Còn biết bao nhiêu ngôi
sao khác người ta đã nhận biết, nhưng vì ở quá xa, nên tới nay các nhà thiên
văn vẫn chưa thể xác định được. Nguyên trong giải ngân hà mà thái dương hệ của
chúng ta chỉ chiếm một phần nhỏ bé, người ta cũng đã tính được tới 50 tỷ định
tinh và hằng tỷ ngôi sao đã chết. Mà không phải chỉ có một giải ngân hà, hiện
nay người ta đã biết được có hằng tỷ giải ngân hà rồi.
Những
vì tinh tú to lớn làm sao, mấy hành tinh ở gần chúng ta như Uranus đã lớn hơn
trái đất 14 lần, Neptune to hơn 17 lần, Saturne 93 lần, Jupiter 1279 lần, và
mặt trời to hơn những 1.300.000 lần. Sao Sirius còn to hơn mặt trời 12 lần, còn
nhiều sao khác còn to hơn sao Sirius nữa…
Những
vì tinh tú ở cách xa nhau đến nỗi ta không thể đọc bằng con số thường, mà phải
lấy đơn vị là quang niên ( năm ánh sáng ) như sau: Vận tốc ánh sáng trong một
giây đồng hồ là 299.792.458km, tương đương 300.000 km/ giây. Mỗi phút có 60
giây, mỗi giờ có 60 phút, mỗi ngày có 24 giờ, mỗi năm có 365 ngày ¼. Vậy một
quang niên sẽ là 299.792.458 km x 60 x 60 x 24 x 365,1/4 sẽ thành 9460 tỷ cây
số. Ánh sáng từ mặt trời đến trái đất chúng ta phải mất thời gian 8 phút 20
giây, từ trái đất đến mặt trăng phải mất hơn 1 phút. Nhưng nếu từ trái đất vượt
qua thái dương hệ đến ngôi sao gần nhất trong chòm sao Nhân Mã phải mất thời
gian 4 năm ( 4 quang niên ). Nhờ thiên lý kính ta biết được những tinh vân xa
140 triệu quang niên. Càng ngày với những kính viễn vọng kính tối tân hơn,
người ta lại càng xem thấy xa hơn nữa.
Trái
đất mỗi ngày quay chung quanh mình một vòng, đang khi nó vẫn chạy theo quỹ đạo
mặt trời với vận tốc 30 km/giây, hoặc 108 ngàn km/giờ không bao giờ sai trật,
đến nỗi các nhà bác học có thể tính trước được ngày giờ của các hiện tượng nhật
thực, nguyệt thực.
Bầu
trời rộng rãi bao la vô hạn thế mà mấy phi công lái máy bay thỉnh thoảng lại
đụng nhau gây nên biết bao tang tóc ! Vậy mà từ tạo thiên lập địa đến nay vẫn
chưa có một hành tinh nào chạm nhau giữa bầu trời nhiều tinh tú như thế.
Vậy
thì vũ trụ bao la với trật tự kỳ diệu, tuân theo những định luật lạ lùng chính
xác như thế lại không phải là bằng chứng chắc chắn có sự sắp đặt an bài của
Đấng Tạo Hóa hay sao ? Becquerel đã nói: “Chính các công cuộc khảo cứu khoa học
của tôi đã đưa tôi đến chỗ nhận biết có Thiên Chúa tạo hóa và làm cho tôi có Đức
Tin”.
b. Tiểu vũ trụ cũng chứng minh có Thiên Chúa:
Vũ
trụ tinh tú khổng lồ thật là một kỳ công. Nhưng vũ trụ nguyên tử tý hon cũng
không kém phần lạ lùng kỳ diệu. Nếu đem phân tích vật chất, ta sẽ thấy như sau:
- Đơn chất: Mọi vật chất trong vũ
trụ thiên nhiên đều được cấu thành bởi những đơn chất. Chẳng hạn: Cái bàn do
nhiều đơn chất gỗ hợp lại thành. Chiếc nhẫn là do nhiều đơn chất vàng cấu tạo
nên… Những đơn chất này rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mắt thường của chúng ta không thể
phân biệt được chúng với nhau.
- Nguyên tử: Mỗi đơn chất nói trên
lại được cấu tạo bởi một số nguyên tử nhất định. Chẳng hạn: Chất nước gồm một
nguyên tử Ôxy và 2 nguyên tử Hyđrô kết hợp thành đơn chất H2O.
Các
nguyên tử đều khác nhau tùy theo mỗi vật: nguyên tử đồng khác nguyên tử sắt;
nguyên tử vàng khác nguyên tử gỗ…Những nguyên tử này ở rải rác khắp nơi trong
vũ trụ, khi thì kết cấu với cái này, khi thì với cái khác làm thành sự biến hóa
vật chất không ngừng trong thiên nhiên. Ta có thể ví các nguyên tử giống như 24
chữ cái a,b,c…hợp tan, tan hợp, làm thành các tiếng. Đến nay các nhà bác học đã
xác định được 92 nguyên tử khác nhau.
Nguyên tử nhỏ lắm, nhỏ đến nỗi những kính
hiển vi phóng đại mạnh nhất cũng không thể nhìn ra được. người ta chỉ căn cứ
vào dấu vết nó đi qua để nhận biết sự hiện hữu của nó. Hiện nay những kính hiển
vi tối tân nhất có thể nhìn những vât nhỏ bằng 2 phần 10 triệu milimét. Nhưng
như thế vẫn còn lớn hơn nguyên tử hằng mấy triệu lần !
Mỗi
nguyên tử là một thái dương hệ, có một nhân ở trung tâm giống như mặt trời, gồm
các dương điện tử ( Proton ) và trung hòa tử ( Neutron ) liên kết với nhau.
Lượn chung quanh nhân là chi chít những âm điện tử ( Electron ). Các âm điện tử
này chạy chung quanh trung tâm với tốc độ 297.000 km/giây. Thật không khác gì
các hành tinh lượn chung quanh mặt trời và cách xa nhau tương đối cũng bằng
khoảng cách của các hành tinh đối với mặt trời vậy.
Khoảng
giữa các nguyên tử, có gì không ? Thực không có gì hết. Nếu các nguyên tử sát
lại với nhau thì ta không thể nâng nổi đầu của một cái kim khâu. Trọng lượng
của các vật nặng nhẹ khác nhau là vì cách xếp đặt nguyên tử của các vật đều
khác nhau. Nếu người ta có thể dồn ép các nhân dương điện tử trong một nguyên
tử, và các nguyên tử trong thân thể con người khít lại gần nhau, thì thân thể
ta chưa chắc to bằng một hột đậu, mà vẫn cân nặng như hiện nay !
Có
một sức lực ghê gớm đã giữ cho trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt
trời, thì cũng có một sức lực tương tự giữ âm điện tử quay chung quanh trung
tâm nguyên tử như vậy. Nếu lợi dụng được sức mạnh mẽ đó, thì người ta sẽ có một
sức mạnh kinh khủng. Đó là điều các nhà bác học đã làm để chế tác bom nguyên tử
với chất Uranium. ( Bom nguyên tử là một thứ khí giới tối tân nhất có sức tàn
phá do những hạt nguyên tử bị tách ra, Radium luôn luôn chiếu ra những quang
tuyến “A.B.Y” và quang tuyến Y luôn luôn phát ra những chất cực nhỏ có thể
xuyên qua những tấm sắt dầy 20cm. Chỉ có lớp chì dày mới có thể cản được sức
tàn phá của nó ).
Những
điều nói trên cho ta thấy có sự xếp đặt, an bài trật tự từ cái cực to đến cái
cực nhỏ, trật tự ấy lại rất hoàn hảo không thể làm khác đi được. Nếu cố tình
làm sai thì sẽ gây nên những hậu quả tai hại khôn lường.
Một
câu chuyện xảy ra chứng minh trật tự thiên nhiên hoàn hảo đến độ nào: một con
ong dù không có trí khôn, nhưng nó luôn phải bó buộc làm theo bản năng thúc
đẩy. Theo bản năng thiên phú, khi làm tổ chứa mật, ong tự nhiên xây bình chứa
hình lục lăng. Các nhà bác học đã quan sát nghiên cứu cách xây dựng tổ ong, và
đã đo rất nhiều bình do nhiều loại ong thực hiện, bao giờ góc tù của bình ấy
cũng là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’.
Nhà bác học REAMUR một ngày kia đặt câu
hỏi thế này: Giả sử muốn làm một cái bình hình lục lăng có khả năng chứa nhiều
nước nhất thì phải làm mỗi góc của bình ấy bao nhiêu độ ? Một nhà bác học ra
công tính toán những con tính rắc rối với việc sử dụng cả bảng tính Logarithme,
cuối cùng tuyên bố kết quả: muốn cho bình chứa được nhiều nước nhất phải làm
góc tù là 109026’ và góc nhọn là 70034’. Chỉ sai biệt với
bình chứa của ong làm có 2’.
Thế
rồi một ngày nọ xảy ra tai nạn làm hỏng một chiếc tầu. Thuyền trưởng không chịu
trách nhiệm và cho rằng mình đã làm đầy đủ bổn phận, đã tính toán rất đúng. Vậy
sở dĩ có rủi ro là vì đường vĩ tuyến có sự sai lầm nào đó. Sau khi tìm tòi lâu
ngày, người ta mới khám phá ra rằng trong bảng tính Logarithme có một chổ sai,
khiến vị thuyền trưởng làm tính sai và gây ra tai nạn cho chiếc tầu. Chữa lại chỗ sai trong bảng tính rồi thử lại với cách
tính 2 góc của hình lục lăng nói trên thì các nhà bác học mới thấy mình đã làm
sai 2’. Phải thực hiện chiếc bình theo góc tù là 109028’ và góc nhọn
cũng là 70032’ như con ong đã làm mới đúng.
Vậy
loài ong không có trí khôn biết tính toán như con người, chỉ biết làm theo bản
năng thiên phú, thế mà lại làm đúng hơn cả những nhà bác học thông minh nhất !
Đứng trước sự kiện hiển nhiên ấy, loài người phải đặt vấn đề: Cái trật tự hoàn
hảo trong thiên nhiên nói trên do đâu nếu không bắt nguồn từ một trí khôn siêu
việt, đã từng sáng tạo vạn vật và an bài theo một trật tự hoàn hảo được gọi là
định luật thiên nhiên nơi vũ trụ và bản năng nơi các sinh vật. Nguyên nhân ấy
chính là Thiên Chúa.
PHẦN B. SINH VẬT CHỨNG MINH CÓ THIÊN
CHÚA:
Sự
sống tràn đầy trên mặt đất, đâu đâu ta cũng nhận thấy có sinh vật hoạt động.
Nhưng cho tới nay, sự sống vẫn còn là một huyền nhiệm mà khoa học bất lực không
thể giải thích được lý do. Sự sống sẽ là một điều phi lý nếu người ta không
công nhận có Thiên Chúa:
a. Huyền
nhiệm của Sự Sống:
Sự
sống là một cái gì đó huyền bí. Người ta chỉ có thể cảm nghiệm hay thấy được
hiệu quả của sự sống, chứ không thể nhìn được chính sự sống nơi cơ thể một sinh
vật sống động. Người ta cũng có thể làm thay hình đổi dạng, cắt cụt một phần cơ
thể con vật, có thể làm cho nảy nở nhanh chóng hơn, hoặc kéo dài them chút ít
sự sống, nhưng không bao giờ có thể thay đổi được nguyên lý của sự sống nơi con
vật. Chẳng hạn: con chó đã được cấu tạo trở thành loài chó, thì không có cách
nào làm cho nó hóa ra loài bồ câu được.
Để
tìm hiểu sự sống, các nhà bác học đã phân chất một quả trứng gà, rồi dùng các
chất y như vậy để làm nên một quả trứng gà khác với đầy đủ mọi tính chất như
trứng gà thực. Tuy vậy, dù được cấu tạo giống hệt như nhau, mà khi đem cả hai
vào máy ấp thì trứng gà đẻ ra thì sống và nở ra gà con, còn trứng gà của các
nhà bác học “ đẻ” thì chết và bị hư thối. Sở dĩ trứng nhân tạo không thể sống,
dù các yếu tố vật chất trong quả trứng ấy vẫn hoạt động đúng theo định luật vật
lý hóa học, là vì không có một sức lực vô hình liên kết các hoạt động ấy theo
một hướng chung, phát triển theo một mô thức chung. Chính sức lực vô hình ấy là
bí mật của sự sống. Bác sĩ ALEXIS CARREL ( 1873 – 1944 ) là nhà giải phẫu và sinh vật học
người Pháp đã
được trao Giải Nobel Sinh Lý
và Y khoa năm
1912, đã trình bày về sự tăng triển kỳ diệu của sự
sống từ một tế bào, rồi tế bào ấy tự phát triển theo một mô thức đặc biệt để
trở thành con vật sống động như sau:
“Con
vật được cấu tạo bởi những tế bào, cũng giống như cái nhà được xây dựng bằng
những viên gạch. Nhưng con vật xuất phát từ một tế bào duy nhất, như thể cái
nhà chỉ bắt nguồn từ một viên gạch mà thôi. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy
những viên gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối hòa tan trong nước vá
khí trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc sư vẽ kiểu, khong cần
đến bàn tay của thợ hồ, đã tự động kết hợp thành những bức tường. Các viên gạch
cũng tự động biến thành các tấm kính để làm cửa, ngói để lợp mái, than để đốt
lò, nước để làm bếp.” ( Alexis Carrel: “L’Homme, cet inconnu” – P. 160 ).
Như
vậy thì hình như mầm giống con vật sinh sống đã biết trước cái nhà mà nó xây dựng.
Hiện tượng kỳ lạ ấy diễn ra hằng triệu lần mỗi ngày cho hằng triệu giống vật
sinh sống, cũng như diễn ra âm thầm trong bụng những con vật mẹ.
Khi
nhìn vào sinh vật thượng đẳng là con người chúng ta lại càng phải thán phục sự
tinh vi kỳ diệu và hoàn hảo của sự sống: hai buồng phổi là một xưởng máy sản
xuất dưỡng khí thật hoàn hảo. Dạ dày là một nhà máy chế biến đồ ăn trở thành
chất bổ nuôi dưỡng cơ thể. Gan là bộ máy phát ra sức nóng và sức chuyển động.
Thận là nhà máy lọc các chất dơ. Trái tim là thứ máy bơm hai chiều. Óc và hệ
thần kinh là nhà máy điện tử với một hệ thống liên lạc để điều khiển toàn thân.
Hai tay là hai cơ quan hành động hữu hiệu. Chân là cơ quan để di chuyển. Mắt là
một thứ máy chụp tự động tối tân nhất. Tai là đài ra đa sống động. Họng là máy
phát thanh hoàn hảo… Có thể nói: cơ thể sống động của con người thực là một
hiện tượng thần kỳ và khó hiểu nhất trong vũ trụ thiên nhiên, là một kỳ quan
lớn nhất trong các kỳ quan trên thế giới.
Vậy sự sống bí nhiệm lạ lung nơi các sinh vật từ hạ đẳng
đến thượng đẳng nói trên bởi đâu xuất hiện ?
b. Nguồn gốc của sự sống:
Nói về nguồn gốc sự sống do đâu mà xuất hiện thì có rất
nhiều giả thuyết khác nhau được nêu ra:
- Một số người quả quyết sự sống vẫn có
ngay từ buổi đầu, ngay từ khi trái đất bắt đầu thành hình.
Nhưng
theo các nhà khoa học thì trái đất khi mới xuất hiện là một khối lủa có nhiệt
độ rất cao ở thể chảy lỏng rồi phải mất một thời gian dài mới nguội dần. Như
vậy, sự sống làm sao có thể chịu nổi sức
nóng kinh khủng thuở ban đầu ấy được ? Ông Cuvier, một nhà cổ sinh vật học
trứ danh, đã quả quyết như sau: “Nhất định sự sống không bắt đầu cùng với trái
đất. Một nhà quan sát sẽ dễ dàng nhận biết lúc nào sự sống mới xuất hiện và lưu
lại vết tích dưới các tầng đất của địa cầu”. Vậy lúc đầu tiên không có mà ngày
nay ta thấy sự sống đã tràn lan trên mặt đất. Thế thì sự sống ấy do đâu mà có
nếu phủ nhận sụ sáng tạo của Thiên Chúa ?
- Có người lại cho rằng sự sống ngày nay có được là do các mầm sống từ một nơi nào đó trong vũ
trụ rơi xuống mặt đất, rồi sau đó sinh sôi nảy nở thêm ra và lan rộng ra khắp
nơi.
Nhưng
nếu thực sự có mầm sống từ không trung rơi xuống như thế, thì lại phải giải
thích cái mầm sống ấy từ đâu ra ? Hơn
nữa, theo những khám phá mới nhất của khoa học không gian thì những hành tinh
gần chúng ta như Mặt trăng ( cũng là một hành tinh ngang hàng với trái đất chứ
không phải phát xuất từ trái đất ! ), Kim tinh, Hỏa tinh đều không có dấu hiệu nào cho thấy có sự sống
cả. Đàng khác, nếu có mầm sống rơi như vậy, thì theo các nhà khoa học: mầm sống
ấy chắc chắn không thể sống được, mà đã
bị các tia phóng xạ của ánh sáng mặt trời tiêu diệt rồi.
- Cũng có
người lại chủ trương sự sống tự nhiên mà có.
Theo họ, trong một điều kiện nào đó về nhiệt độ và khí hậu… thì vật chất sẽ tự
hóa sinh ra các sinh vật. Chẳng hạn: Cái bàn bằng gỗ sau thời gian ít năm
sẽ tự nhiên bị mọt ăn, hoa quả thối chin sẽ tự nảy sinh ra dòi bọ…
Nhưng
thuyết sự sống tự phát sinh này đã bị Pasteur và Tyndall chứng minh ngược lại.
Hai nhà bác học thời danh này đã làm một thí nghiệm cho thấy: không bao giờ có sự tự hóa sinh. Hai ông
đã cô lập hóa một vài môi trường mà sự sống thường phát sinh. Rồi tìm cách loại
bỏ, giết chết tất cả các mầm sống có sẵn trong môi trường ấy. Hai ông cho biết:
dù có đủ mọi điều kiện thích hợp, môi trường bị cô lập kia cũng không bao giờ
tự hóa sinh sự sống nữa. Vậy sở dĩ có trường hợp vật chất hóa sinh sự sống là
vì đã có sẵn mầm sống trong vật chất đó, nên khi đủ điều kiện nó liền tự nảy nở
ra. Thực sự không có vấn đề ngẫu sinh hay tự hóa sinh cả.
Ngoài
ra, tất cả những thí nghiệm nhằm tạo nên
tế bào sống đều thất bại. Một vị giáo sư sinh vật học nọ một ngày kia đã
thử làm một hạt giống nhân tạo. Ông phân chất một hạt giống thật, rồi dùng
những chất liệu như vậy để chế tạo ra một hạt giống khác. Sau một thời gian
quan sát, ông nhận xét: hạt giống nhân tạo cũng mọc lên, có rễ, có thân, nhưng
vẫn không có sự sống, không thở, không lưu chuyển nhựa sống. Sở sĩ cây có mọc
lên mà không sống là vì thiều hai đặc tính quan trọng của sự sống là : có tổ
chức và tự dinh dưỡng. Còn sự mọc rễ, mọc thân nói trên cũng chỉ là một hiện
tượng vật lý hóa học của các chất hữu cơ, chứ không có chút dấu vết nào của sự
sống thực sự. Bác sĩ
Halluin giải thích them về hiện tượng mọc rễ mọc thân
như sau: “Hạt giống mọc lên thực nhưng núi đá cũng mọc lên mà vẫn không
sống, cũng như một quả bóng người ta thổi hơi vào cũng phình ra mà vẫn không
sống, thân cây rong biển khô, được đặt vào nơi ẩm ướt cũng phình lên to, nhưng
sự phồng lên đó không phải dấu của sự sống.”
Nhà bác học Delage đã làm một thí nghiệm về sự thụ thai
nhân tạo: ông cho một con hải đởm cái thụ thai mà không theo cách thức thông
thường là giao hợp với con đực. Mượn lấy thí nghiệm ấy, một số người vô tín đã
vội lên tiếng quả quyết: “Loài người đã tạo dựng lên được sự sống”. Nhưng chính
Delage lại phủ nhận quả quyết mà người ta đã gán cho thí nghiệm của ông như
sau: “Khi tôi làm được cho con hải đởm thụ thai và sinh con như thế, người ta
kêu ầm ĩ lên rằng: tôi đã tạo ra được sự sống. Nhưng thực sự tôi chẳng tạo ra được gì cả. Những ống tiêm của tôi chỉ
có thể ảnh hưởng đối với trứng của con vật kia, khi tiêm vào đó một chất hữu
cơ. Còn nói rằng tôi đã tạo ra được sự sống thì thực là lầm to !”
Như
vậy, không có vấn đề ngẫu sinh, không có tự hóa sinh tuyệt đối. Khoa học không
thể làm được một vật sống động nếu không có sẵn một mầm sống trước đó. Nếu sự
sống không tự nhiên có thì phải nhận có
sự sáng tạo của một nguyên nhân tối hậu nào đó. Nguyên nhân ấy là Thiên Chúa.
Chính Ngài đã sáng tạo sự sống cách trực
tiếp hay gián tiếp bằng cách xếp đặt một trật tự, một định luật trong vật chất,
để khi có đủ điều kiện thì mầm sống ấy sẽ xuất hiện.
Ngoài
ra, khi tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên, người ta cũng nhận ra rằng: có một sự xếp
đặt nhằm bảo tồn sự sống nơi các định luật thiên nhiên chi phối sự vận hành của
các hành tinh trong vũ trụ.
c. Bảo tồn sự sống:
Khoa
học cho biết: sự sống chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu hội đủ điều kiện về
khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng… Nếu thiếu một trong các điều kiện quan trọng thì
sinh vật khó long sống được. thế mà khi quan sát các hiện tượng thiên nhiên,
người ta lại đi kết luận chung như sau: Có một sự xếp đặt nào đó để bảo tồn sự
sống trong vũ trụ. Thực vậy:
- Tốc độ quay của trái đất cũng giúp bảo
tồn sự sống: Trái đất hiện đang quay với tốc độ 1600 km/giờ ở đường xích đạo.
Nếu quay chậm đi 10 lần, thì ngày và đêm trên địa cầu sẽ dài gấp 10 lần hiện
nay. Như vậy một số cây sẽ bị chết khô, số còn lại sẽ bị chết cóng.
- Khoảng cách giữa mặt trời và trái đất cũng giúp bảo tồn sự
sống:
Nhiệt độ của mặt trời là 5.500 độ. Trái đất cách quãng xa vừa đủ để cho chúng
ta được sưởi ấm. Nếu giảm đi một nửa khoảng cách để xa mặt trời hơn thì mọi
sinh vật sẽ chết vì lạnh. Nhưng nếu them một nửa khoảng cách để đến gần mặt
trời hơn thì mọi vật sẽ bị chết cháy hết.
- Độ nghiêng của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất phải ở vị trí
hiện nay, nghĩa là nghiêng 23 độ thì mới có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và hai
cực mới khỏi bị chồng chất băng tuyết. Nếu nghiêng ở vị trí khác thì mùa màng
sẽ thay đổi khác hẳn, sẽ ảnh hưởng tới sự đâm chồi nảy lộc và đơm bông kết trái
của cây cối.
- Khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng cũng giúp bảo tồn
sự sống:
Nếu mặt trăng gần lại trái đất 80.000 cây số thì mỗi ngày nước biển sẽ bao phủ
lục địa 2 lần và sẽ cuốn trôi mọi vật ra biển.
Như
vậy, trước những lý chứng hiển nhiên nói trên, mọi người có trí khôn đều phải
công nhận: phải có một trí khôn siêu
việt và một bàn tay quyền năng nào đó đã tạo dựng nên sự sống cách trực tiếp
hoặc gián tiếp, và đã an bài xếp đặt chúng có những điều kiện thiên nhiên hoàn
hảo như hiện nay. Trí khôn siêu việt và bàn tay quyền năng ấy chính là Thiên
Chúa sáng tạo vậy.
C. LUẬT LUÂN LÝ MINH CHỨNG CÓ THIÊN
CHÚA:
a. Nơi mỗi người đều có luật luân lý:
Ai
trong chúng ta cũng đều nghe thấy một tiếng nói thầm kín khuyên bảo phải làm
điều lành và tránh làm điều ác. Đồng thời ta sẽ cảm thấy niềm vui thỏa sau khi
thực hiện được một điều thiện, trái lại sẽ cảm thấy ray rứt bất an nếu cố tình
làm trái tiếng nói thầm kín ấy. Đó là tiếng nói của lương tâm, một luật tự
nhiên vẫn có sẵn trong tâm trí mỗi người từ khi sinh ra.
Luật
tự nhiên này có những đặc tính khác hẳn những định luật vật lý hóa học, hoặc
luật lệ xã hội như phong tục tập quán hoặc luật pháp của quốc gia.
+ Luật lý hóa một khi đủ
điều kiện thì đương nhiên phải xảy ra. Chẳng hạn: lửa gặp rơm khô ngoài khí
trời tất nhiên sẽ phải cháy. Còn luật luân lý thì không những lệ thuộc điều
kiện khách quan bên ngoài, nhưng còn lệ thuộc vào sự lựa chọn chủ quan. Chinh
do sự lựa chọn tự do này mà con người trở thành một loài vật giá trị ưu việt
nhất, khác hẳn các loài vật hành động hoàn toàn do bản năng mù quáng thúc đẩy.
Văn hào Chateaubriand đã nói: “Con hổ xâu xé con mồi rồi ngủ ngay được. Duy chỉ
có con người, sau khi đã nhúng máu thì khó lòng nhắm mắt bình an, vì những hình
ảnh báo oán của kẻ bị hại luôn hiện lên trước mắt y.
+
Luật xã hội do con người trong xã hội quy định gọi là phong tục tập quán. Luật
pháp quốc gia do một số người đại diện có trách nhiệm thiết lập nên và được ghi
chép lại thành văn để mọi người trong quốc gia ấy tuân giữ. Trong khi luật luân
lý vẫn có sẵn trong mỗi người từ khi sinh ra, chứ không nhất thiết phải có ai
dạy mới biết, không được ghi chép thành văn giống như luật quốc gia ở trên. Thế
mà hầu như mọi người không phân biệt thời đại, dân tộc, quốc gia… cũng đều biết
cùng một bộ luật căn bản giống nhau là: phải làm việc lành và tránh làm điều
ác, không được giết người vô tội, không được ăn cắp hoặc cướp đoạt tài sản của
người khác cách bất công, phải thảo hiếu cha mẹ, trọng kính người trên v.v… Mà
nếu cố tình làm trái các điều trên thì đương nhiên con người sẽ bị lương tâm
cáo trách, cho dù các việc làm ấy không ai hay biết. Câu chuyện Cain trong
Thánh Kinh chứng tỏ điều đó.
Cain
vì ghen tuông nên đã phạm tội giết đứa em ruột là Aben, rồi sau đó đã chạy trốn
con mắt lương tâm theo dõi nhưng không sao chạy thoát. Cuối cùng Cain đã phải
tự tìm đến cái chết treo cổ để đền tội. Nhà văn hào Plutarque người Hy Lạp cũng
kể câu chuyện nội dung như sau: Một gã kia tên là Pessus phạm tội giết cha. Dù
không ai hay biết việc làm của hắn, nhưng có điều lạ là từ hôm đó, Pessus luôn
nghe thấy những con chim én lặp đi lặp lại: "Mày là thằng giết cha, mày là
thằng giết cha !” dù thực sự loài én chỉ biết kêu một âm thanh như thường lệ.
Hắn tìm cách phá hết mọi tổ én, nhưng vẫn không xong. Cuối cùng hắn đã buột
miệng nói với người khác rằng những con chim én luôn kêu hắn là kẻ giết cha.
Sinh nghi, người ta mở cuộc điều tra và việc giết cha của hắn đã bị đưa ra ánh
sáng.
b. Tiếng lương tâm hay luật luân lý
trong con người:
Các câu chuyện trên cho thấy có một thứ luật luân lý tự
nhiên gọi là tiếng lương tâm, chi phối mọi hành động của con người có trí khôn,
thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, màu da, tiếng nói… Vậy luật ấy do đâu mà có ?
Nguồn
gốc của luật luân lý nơi con người: Có một số người nói rằng luật luân lý tự
nhiên nơi mỗi người là do tự mình đặt ra cho mình, hoăc cũng có thể do xã hội
giáo dục từ nhỏ rồi nhập tâm dần dần mà ra. Nhưng khi đi sâu vào việc nghiên
cứu tìm hiểu, chúng ta thấy không phải như vậy vì những lý do như sau:
Lương tâm mỗi người không phải tự mình đặt ra: Vì nếu mỗi người tự đặt
ra luật cho mình thì chắc người ta sẽ phải đặt ra những luật dễ giữ và có lợi
cho bản thân, đồng thời sẽ loại bỏ những luật có hại cho bản thân mình. Nhưng
luật luân lý có những đặc tính khác hẳn: khó giữ vì không luôn phù hợp với
khuynh hướng xấu của con người, nên chắc không phải do tự mỗi người đặt ra cho
mình. Đàng khác, nếu mỗi người đều tự lập ra luật riêng cho mình thì chắc luật
luân lý sẽ phải khác nhau chứ không thống nhất giống nhau như ta thấy trong
luật luân lý nơi con người được.
Luật luân lý cũng không phải do xã hội giáo dục, khuôn đúc
hình thành dần dần trong tâm hồn mỗi người từ nhỏ đến lớn vì:
+ Xã hội là do nhiều cá nhân kết hợp lại thành. Nếu luật luân lý
do xã hội giáo dục thì chỉ những ai sống trong cùng một xã hội mới hiểu biết và
mới giữ luật ấy. Nhưng trong thực tế có những người sống một mình từ nhỏ tới
lớn, không tiếp xúc, cũng không chịu ảnh hưởng của xã hội, thế mà họ vẫn biết
cùng một thứ luật luân lý như nhau. Như vậy, luật luân lý tự nhiên chắc chắn
không phải do xã hội, cũng không bắt nguồn từ xã hội.
+ Đàng khác, nếu luật luân lý bắt nguồn từ xã hội thì chắc
sẽ phải thay đổi tùy theo mỗi xã hội, chứ không thể có tính đồng nhất trong mọi
xã hội như tiếng nói của lương tâm mỗi người được.
Vậy phải
đi đến kết luận: luật luân lý tự nhiên có sẵn trong tâm hồn mỗi người
ngay từ khi mới sinh ra, chứ không phải mỗi người tự đặt ra luật riêng cho
mình; Cũng không phải do xã hội khuôn đúc giáo dục hình thành. Cha mẹ, thầy dạy
hay xã hội chỉ đóng vai trò phụ thuộc, giúp cho luật ấy phát triển mau lẹ và rõ
ràng hơn trong tâm hồn đứa trẻ mà thôi. Luật luân lý tự nhiên ấy phải do Tạo
Hóa in sẵn trong tâm hồn con người có lý trí, tương tự như một thứ bản năng của
thân xác. Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Giám Mục Jacques Bénigne Bossuet
đã nói: “Những chân lý vĩnh cửu và bất biến của luật luân lý bó buộc ta phải
công nhận có một Đấng mà chân lý vĩnh cửu luôn tồn tại nơi Ngài.”
D. NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG MINH CHỨNG CÓ
THIÊN CHÚA:
Ngay trong thế kỷ 21, thế kỷ khoa học tiến bộ vượt bậc trong việc
tìm hiểu và khám phá những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, chi phối mọi
sinh vật, động vật kể cả con người… Thế mà vẫn không thiếu những trường hợp lạ
lùng trái ngược luật tự nhiên xảy ra khắp nơi: khỏi bệnh nan y một cách tức
khắc không do sự chữa trị thông thường, mà do một thứ quyền lực thiêng liêng
nào đó ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Những hiện tượng xáo trộn trật tự vũ
trụ như mặt trời quay ở Fatima Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ 20 ( năm 1917 ) đã
được hằng vạn người chứng kiến v.v… Tất cả những hiện tượng ấy gọi chung là các
phép lạ.
a. Có phép lạ thực hay chỉ là bịa đặt:
Từ 11 tháng 2 đến 16.7.1858, Đức Mẹ
đã hiện ra 18 lần với Bernadette Soubirous. Lần thứ 9, Đức Mẹ chỉ cho
Bernadette tìm được nguồn suối dưới chân hang đá Massabielle. Nơi đây trở thành
Linh Địa, mỗi năm có hơn 6 triệu khách hành hương uống và tắm trong nước suối.
Từ 150 năm nay có 7 ngàn trường hợp khỏi bệnh không thể cắt nghĩa được.
Vào trung tuần tháng 10, mưa hồng ân
đổ xuống Lộ Đức ( Lourdes ). Vị Giám Mục Giáo Phận Casale Monferrato ở miền bắc
nước Ý chính thức công bố quyết định công nhận phép lạ thứ 68.
Đức Cha Nicolas Brouwet, Giám Mục Lộ
Đức đã tuyên đọc sắc lệnh công nhận, với sự chứng kiến của bác sĩ Alessandro de
Franciscis, chủ tịch Văn Phòng Y Chứng Lộ Đức ( BCM ). Phép lạ chữa lành cho Nữ
Tu Luigina Travetrso được ghi nhận vào ngày 23.7.1965.
Sœur Luigina Traverso sinh năm 1934,
bị liệt cột sống. Vị Nữ Tu này chịu giải phẫu nhiều lần vẫn không khỏi. Ủy Ban Y
Khoa Quốc Tế Lộ Đức ( CMIL ) đã chứng thực ngày 23.7.1965, trước hang đá Lộ
Đức, vị Nữ Tu này đứng dậy được từ xe lăn, đi đứng bình thường. Đây là phép lạ
thứ 68 được chính thức công nhận.
Đức Mẹ đã phán bảo: ‘‘Các con hãy
đến uống và tắm nước suối.’’ Từ đó, nhiều người được khỏi bệnh. Năm 1884,
Giáo Hội Công Giáo thành lập Văn Phòng Y Chứng để xem xét các lời khai. Sau khi
được văn phòng này chấp nhận, hồ sơ được chuyển qua Văn Phòng Y Khoa Quốc Tế.
Sau đó, Giáo Phận của người được lành bệnh chính thức mở cuộc điều tra. Nữ Tu Luigina
Traverso là trường hợp thứ 68 được công nhận được khỏi bệnh nhờ phép lạ.
Thành viên của Văn Phòng Y Chứng và
Văn Phòng Y Khoa Quốc Tế gồm cả những những bác sĩ không Công Giáo. Các chuyên
gia cần chứng nhận trường hợp khỏi bệnh không thể giải thích được bằng khoa
học. Các tiêu chuẩn xét nghiệm gồm việc:
- Người bệnh được chẩn đoán một cách minh bạch;
- Bệnh trạng đã được xác nhận trước khi
xảy ra phép lạ;
- Người bệnh được hoàn toàn lành
bệnh tức khắc và vĩnh viễn, sau này không bị tái phát;
- Việc trị liệu
y khoa không phải là nguyên nhân được chữa lành bệnh.
Văn phòng bác bỏ nhiều lời khai
không đáp ứng được các tiêu chuẩn vừa kể.
Sau đây là số liệu các phép lạ Đức
Mẹ Lộ Đức: 1858 – 1870: 7 trường hợp; 1908 – 1913: 33; 1946 – 1965:
22; 1976 – 1978: 2; 1989: 1; 1999: 1; 2005: 1; 2011: 1.
Ngoài phòng khám bệnh khoa học của các bác sĩ, vào năm 1905, Hội
Đồng Giám Mục cũng đã thành lập một ủy ban điều tra chính thức của Giáo Quyền nhằm
phân quyết những trường hợp nào là phép lạ, trường hợp nào là không. Ủy ban làm
việc môt cách cẩn thận và vô tư theo cách thức của một tòa án. Những trường hợp
được tuyên bố là phép lạ thì không thể hồ nghi gì được nữa. Từ năm 1905 đến
1913, ủy ban này đã công bố 32 phép lạ thực.
Như vây, phòng khám nghiệm của các y sĩ cũng
như ủy ban các Giám Mục đều đã xác nhận tại Lộ Đức đã có những trường hợp khỏi
bệnh cách lạ lùng. Trong tạp chí Études ấn hành năm 1909, Linh Mục Teilhard
de Chardin đã đưa ra quan điểm của Giáo Hội về phép lạ Lộ Đức như sau: ‘‘Các
phép lạ Lộ Đức là các sự kiện không thể chối cãi được, chứng minh tác động sáng
tạo của Thiên Chúa.’’ ( nguồn: Vietcatholic news ).
b. Phép lạ bởi đâu ?
Những người không tin có Thiên Chúa khi đứng trước những trường
hợp lạ lùng khoa học không thể giải thích được, đã đem ra rất nhiều lý lẽ để
phủ nhận sự can thiệp của Thiên Chúa như sau:
- Khỏi bệnh vì nguyên nhân tự nhiên: Vì trong nước suối ở
hang Lộ Đức có pha lẫn một thứ chất hóa học có năng lực chữa được một số bệnh
tật.
Nhưng thực sự, khi đem phân chất thì kết quả cho thấy nước suối ấy
cũng chỉ là một thứ nước lã bình thường như bao thứ nước khác, không có thêm
một chất nào khác có thể chữa bệnh cả. Đàng khác, có nhiều trường hợp bệnh nhân
không xuống đến nước, cũng không uống chút nước ấy, thì bảo khỏi bệnh tại nước
thế nào được ?
- Khỏi bệnh là vì lý do tâm lý: Vì quá tin và muốn được
khỏi cách mãnh liệt, nên đã ám thị mình đến độ trở thành sự thực.
Nhưng
nếu tin tưởng và ám thị có thể chữa được bệnh, thì nếu muốn được khỏi, bệnh
nhân trước hết đã phải biết tin, biết ám thị. Thế mà có nhiều trường hợp trẻ
con chưa có trí khôn, chưa biết gì hết mà vẫn được khỏi nhờ lời cầu nguyện của
cha mẹ hay người khác, thì khỏi bệnh đâu phải tại tin hay tại ám thị. Thực ra,
ám thị cũng có thể có đôi chút ảnh hưởng đến một vài thứ bệnh tâm lý, đau thần
kinh, điên loạn, chứ không có thể chữa được các bệnh do vi trùng hay siêu vi
trùng gây ra như: Bệnh phong cùi, ung thư, thổ huyết, lao phổi…
- Khỏi bệnh là vì quy luật tự nhiên: do ảnh hưởng của một
thứ quy luật tự nhiên bí mật nào đó chi phối mà người ta chưa khám phá ra:
Nhưng nếu vậy thì luật ấy phải có tác
dụng điều hòa, đồng nhất, bất di dịch, cho dù người ta có biết hay không biết
thì luật đó vẫn tác dụng. Hễ cứ hội đủ điều kiện khách quan là đương nhiên kết
quả phải xảy ra. Chẳng hạn, người mù trước làm thế nào để được khỏi mù thì các
người sau cứ làm đúng như thế sẽ đương nhiên được sáng mắt. Nhưng ở Lộ Đức (
Lourdes ) thì tình trạng lại khác hẳn: Có người được khỏi khi tắm, người khác
thì khỏi khi đang cầu nguyện vào những thời gian khác nhau trong ngày: sáng,
trưa, chiều, tối… Ở điều kiện nào cũng có người được khỏi. Có những trường hợp
hai người bệnh cùng trong một hoàn cảnh, cùng một thứ bệnh giống nhau, mà người
thì được khỏi, người thì không. Như vậy, không thể nói có một luật bí mật được.
- Khỏi bệnh do có sự lừa
dối nào đó: cần phải chờ sự phán quyết của các nhà bác học hoàn toàn vô tư.
Alexis
Carrel ( Ảnh kèm theo ), một vị tiến sĩ y khoa, giáo sư giải phẫu học tại Đại
Học Lyon Pháp, trước khi đi Lộ Đức quan sát tận nơi cũng đã nghĩ như vậy. Ông
cho rằng: có lẽ các nhà khoa học chưa khám nghiệm kỹ đủ, có thể còn một vài sơ
suất chưa cân nhắc tường tận. Theo Carrel: Ngoài những sự kiện khoa học tìm ra
và kiểm chứng rõ ràng thì không còn chân lý nào khác có giá trị. Không thể có
phép lạ được ! Nhưng trước sự khỏi bệnh lạ thường của Marie Ferrand, một cô gái
đang hấp hối vì bệnh lao ruột ở giai đoạn chót mà các bác sĩ đều từ chối không
dám mổ cho cô, mà Carrel đã chứng kiến tận mắt từ khi cô gái này mới đến Lộ Đức
cho tới lúc khỏi bệnh tức khắc mà không thể cắt nghĩa được. Ông đã chịu khuất
phục và ghi chú trong nhật ký: “Thật là một chuyện không có thể, nhưng có thực.
Quả là bất ngờ: một phép lạ vừa mới xảy ra.” Ngay lúc đó không còn tin ở mình,
Carrel lập tức mời hai bác sĩ bạn ông tới chứng kiến và các ông này cũng đều
chứng nhận: “Cô này không còn bệnh gì hết, cho cô ra khỏi nhà thương.”
Việc bác sĩ vô thần Carrel thay đổi tâm hướng đã nói lên một sự
thật mà con người dù yêu sách đến đâu cũng phải suy nghĩ: Quả thật, có Đấng Tạo
Hóa, có Thiên Chúa. Ngài là Đấng đã thiết lập trật tự trong vũ trụ thiên nhiên,
thì trong môt vài trường hợp đặc biệt, Ngài cũng có thể để xảy ra ngoài trật tự
ấy. Đó chính là phép lạ vậy.
TÓM LẠI:
Trước những trật tự lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên, trước việc
sự sống tràn đầy trên mặt đất, trước những luật luân lý in sâu trong tâm hồn
mỗi người, trước những phép lạ mà khoa học đành bất lực không thể tìm ra lời
giải thích hợp lý… Chúng ta phải công nhận có ĐẤNG TẠO HÓA; CÓ THIÊN CHÚA SÁNG
TẠO. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và đã an bài chúng theo một trật tự
chung mà khoa học gọi là định luật thiên nhiên. Chính Ngài là nguồn gốc của sự sống,
đã tạo thành mọi sinh vật từ thấp kém đến cao quý nhất, và đã phú cho chúng
những bản năng riêng để tự phát sinh và tồn tại. Cũng chính Ngài là tác giả của
bộ luật luân lý tự nhiên in sẵn trong tâm trí con người từ khi sinh ra. Sau
cùng, Ngài còn là tác nhân của những trường hợp đặc biệt xảy ra ngoài trật tự
tự nhiên mà khoa học không thể giải thích được.
Như vậy, tuy khoa học không thể chứng minh có Thiên Chúa một cách
trực tiếp vì ngoài phạm vi nghiên cứu của nó, nhưng khoa học vẫn có thể góp
phần quan trọng trong việc tỏ rõ kỳ công của Ngài. Chính nhờ những hiểu biết rõ
ràng chính xác do khoa học đem lại, con người dễ dàng sử dụng trí khôn suy luận
để nhận ra có bàn tay quyền năng, có trí khôn siêu việt đã xếp đặt và tạo dựng
nên vũ trụ vạn vật. Bàn tay và trí khôn ấy là của Thiên Chúa Tạo Hóa.
Newton, một nhà thiên văn học lừng danh đã dám mạnh dạn lên tiếng
quả quyết: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu thiên lý kính của tôi”. P. Termier
cũng cho biết: “Mọi khoa học đều chuẩn bị trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện
hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào cũng thế, bao giờ
cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, hỗn hợp, khuyết điểm… có cùng
đích và rất phức tạp. Do đó, nhà khoa học sẽ dễ dàng có y tưởng về một Đấng Tạo
Hóa bất biến, tự hữu, đơn thuần, hoàn hảo, và là Đấng duy nhất an bài mọi sự.
Chính vì thế người ta bảo: KHOA HỌC DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA. VŨ TRỤ VẬT CHẤT CHÍNH
LÀ BÍ TÍCH CỦA THIÊN CHÚA”.
3. THẢO LUẬN:
- Bạn có nên tranh cãi
với người vô tín về sự hiện hữu của Thiên Chúa không ? Tại sao ?
- Bạn nên làm gì khi có
người yêu cầu trình bày Giáo Lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa để giúp họ thêm
xác tín vào quyền năng của Ngài ?
4. NGUYỆN CẦU:
Lạy Thiên Chúa Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất. Xin cho
chúng con thêm xác tín vê sự hiện hữu cua Chúa trong vũ trụ thiên nhiên va nơi
mỗi chúng con. Xin cho chúng con năng cầu xin Chúa ban thêm Đức Tin, giống như
người cha có đứa con bị quỷ câm ám đã thưa với Đức Giêsu: “Tôi tin ! Nhưng xin
Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi” ( Mc 9, 24 ).
------------------------------------------------
Lm. ĐAN
VINH, Hiệp Hội Thánh Mẫu
No comments:
Post a Comment