Sunday, May 25, 2014

Friday, May 23, 2014

TÌM HIỂU KINH THÁNH

Thánh PHAOLÔ viết bao nhiêu thư? Và Khi nào?

Đọc trong Tân Ước, ta thấy có 13 thư mang tên tác giả Phaolô gởi cho các giáo đoàn hay cá nhân theo thứ tự: Rôma, 1 và 2 Corintô, Galata, Ephêsô, Philiphê, Côlôsê, 1 và 2 Thesalônica, 1 và 2 Timôtê, Titô, và Philêmon.

Một số học giả Thánh Kinh cho rằng tất cả 13 thư trên là do Phaolô viết hay những trợ tá trực tiếp viết. Nhưng phần lớn các học giả Thánh kinh ngày nay tin rằng chỉ có 7 thư do chính Phaolô viết là: Roma, 1 và 2 Corintô, Galata, Philiphê, 1 Thesalonica và Philêmon. Ngay cả trong số 7 thư này cũng có những cộng sự viên cùng viết với Ngài và tên của họ được liệt kê trong những lời giới thiệu đầu thư như thư 1 và 2 Côrintô, Philiphê, 1 Thesalonica và Philêmon.

PHỤNG VỤ LÀ GÌ?

Tại Sao Cần Có Phụng Vụ Trong Giáo Hội?
Hỏi: Xin cha giải thích tầm quan trọng của Phụng vụ trong đời sống của Giáo Hội.
------------------------------------------------------------
Trả lời: Phụng vu  thánh (Sacred Liturgy=liturgia) là toàn thể việc phụng thờ, ca tụng, tạ ơn  và xin ơn Thiên Chúa mà Giáo Hội, với tư cách là Hiền Thê của Chúa Kitô, hàng ngày cử hành qua kinh nguyện, nhất là cử hành Thánh lễ Tạ Ơn và các Bí tích nhân danh Chúa Kitô (in personna Christi) để  xin ơn cứu chuộc của Chúa  tiếp tục  ban phát cho những ai  thành tâm thiện chí muốn hưởng  nhờ  để hy vọng được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Thursday, May 22, 2014

PHỤNG VỤ KITÔ GIÁO

“Danh từ ‘Phụng Vụ’ theo nguồn gốc, có nghĩa là ‘việc công khai’, ‘việc do dân và vì dân’. Theo truyền thống Kitô giáo, danh từ này muốn nói: ‘Dân Thiên Chúa tham dự vào công trình của Thiên Chúa’. Qua Phụng vụ, Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc và Thượng Tế, tiếp tục công trình cứu chuộc trong Hội Thánh, với Hội Thánh và qua Hội Thánh” (GLHTCG 1069)

Phụng vụ không những để chỉ nghi lễ tôn thờ Thiên Chúa, mà còn là việc rao giảng Tin Mừng và thực thi bác ái. Vì thế, Phụng vụ có hai mục tiêu rõ rệt: vừa phục vụ Thiên Chúa, vừa phục vụ con người.

I. DANH TỪ PHỤNG VỤ
Danh từ Phụng vụ có nguồn gốc tiếng Hy Lap: Leiturgia, được ghép bởi hai chữ: Laos nghĩa là dân chúng và Ergon là công việc. Theo nghĩa đó, phụng vụ chỉ công việc của dân chúng có tính công ích. Vào đầu thế kỷ II trước Chúa Kitô, danh từ Leiturgia mang thêm một ý nghĩa mới để ám chỉ các việc thờ phượng công cộng, và được người Do Thái sử dụng trong bản dịch Thánh Kinh Hy Lạp (bản LXX) để ám chỉ các việc phượng tự của các tư tế trong đền thờ.

Các sách Tân Ước cũng sử dụng từ Leiturgia, không những để chỉ nghi lễ phụng thờ Thiên Chúa (Cv 13,2; Lc 1,23) mà còn ám chỉ việc rao giảng Tin Mừng (Rm 15,16); chỉ việc bác ái (2Cr 9,12).

Tuesday, May 20, 2014

Tín Điều Về Mẹ Maria

Cao Tấn Tĩnh

"Những lần Mẹ hiện ra" từ thế kỷ 19 là dấu hiệu thứ nhất chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria. Dấu hiệu thứ hai chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria, đó là, cũng từ thế kỷ 19 trở đi, ba tín điều về Mẹ Maria đã được Giáo Hôi chính thức tuyên tín. Trong khi đó, 18 thế kỷ trước, chỉ có một tín điều duy nhất về Mẹ là tín điều Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội tuyên tín vào năm 431 ở công đồng chung Êphêsô mà thôi.

Vào thời kỳ ấy, thời công đồng Êphêsô, có một vị linh mục tên Anastasiô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) của Mẹ, và chỉ công nhận Mẹ là Mẹ của Chúa Kitô (Khristotokos).Chính Nestôriô là thượng phụ Constantinôpôli năm 428 cũng chấp nhận như vậy, tức công nhận Chúa Kitô có hai Ngôi Vị, một thần linh và một nhân loại. Dựa vào bức thư thứ hai trong ba bức thư của thánh Giáo Phụ Cyrilô Alexandria gửi cho Nestôriô, các nghị phụ tham dự công đồng chung này, vào ngày 22-6-431, đã tuyên tín như sau:

“Không phải Ngôi Lời đã từ trời xuống ở với một phàm nhân được Trinh Nữ Thánh sinh ra đầu tiên; mà là, vì nên một với xác thể trong lòng (của Trinh Nữ Thánh), Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác thể, như là việc sinh ra theo xác thể của mình... Bởi thế, (các giáo phụ) đã không ngại gọi Trinh Nữ Thánh là 'Mẹ Thiên Chúa' (Theotokos). Điều này không có nghĩa là bản tính của Ngôi Lời hay Thiên Tính của Ngài đã được bắt đầu hiện hữu từ Trinh Nữ Thánh, mà là, vì Thánh Thể được sinh động bởi hồn thiêng, mà Ngôi Lời đã ngôi hiệp (kath'hupostasin) với chính mình, được sinh ra bởi Người, nên Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác thể” (TCF:148-149).

Và, cũng bắt đầu từ đó, Giáo Hội đã dạy cho con cái mình cầu nguyện cùng Mẹ:
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.

Nguời Tín Hữu Chúa Kitô Phải Có Những Nhân Đức Nào?

Hỏi: Xin cha giải thích các nhân đức mà người Công giáo phải có để sống đức tin trước mặt người khác.

PHẢI CHĂNG NGƯỜI TA có thể TRẢ GIÁ CHO một THÁNH LỄ?

Thánh Lễ Mi-sa là một sự lặp lại Hy Lễ thập giá của Đức Kitô, nên hoàn toàn vô giá, người ta không thể trả giá hay mua bằng tiền bạc được.
---------------------------------------

Bình thường, hầu như tất cả các tín hữu Công Giáo đều đầy lòng tin tưởng khi họ đến xin một vị Linh Mục dâng Thánh Lễ để cầu nguyện cho một ý nguyện nhất định nào đó của họ, như cầu xin ơn bình an cho gia đình, cho con cái hay cầu nguyện cho linh hồn các người thân đã qua đời, v.v…Và những ý nguyện ấy thường được gọi là “ý lễ” (Meßintentionen). Trên thực tế, người tín hữu thường đến văn phòng giáo xứ để gặp cha Quản Xứ hay thư ký giáo xứ và trình bày ý nguyện xin lễ của mình và sau đó dâng một số tiền nào đó theo quy định của Giáo Phận, của Giáo xứ hay tuỳ lòng hảo tâm của đương sự, số tiền này được gọi là "bổng lễ".

Vấn đề tiền xin lễ hay bổng lễ này đã khiến không ít người từng thắc mắc tự hỏi: Phải chăng người ta có thể mua được ơn thánh và sự chúc phúc của Thiên Chúa? Phải chăng con người có thể mặc cả với Thiên Chúa về ân sủng thiêng liêng bằng tiền bạc vật chất? Nói cách khác, phải chăng người ta có thể trả giá cho một Thánh Lễ?

Saturday, May 17, 2014

TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN

Tác giả: LUDWIG OTT

I. Ý NIỆM VÀ TÍNH BÍ TÍCH CỦA BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN

1. Ý niệm về Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân

Bí tích xức dầu bệnh nhân là BT, trong đó người tín hữu nhận được hồng ân của Thiên Chúa để được ơn cứu độ siêu nhiên cho linh hồn và cũng thường được nhận ơn cứu độ tự nhiên phần xác, nhờ qua việc xức dầu và lời cầu nguyện của linh mục.

2. Tính Bí tích của việc xức dầu bệnh nhân
a) Tín điều

BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN LÀ MỘT BÍ TÍCH THẬT VÀ CHÍNH ĐÁNG, DO CHÍNH ĐỨC KITÔ THIẾT LẬP. De fide.

Vào thời Trung cổ có nhiều giáo phái xem nhẹ việc xức dầu sau hết như nhóm Catharer, Waldenser, Wiclifiten, Hussiten, và họ không muốn nhận ; tiếp đến giáo phái Tin Lành lại phủ nhận tính Bí Tích của việc xức dầu này. Họ cho đấy chỉ là phong tục do các giáo phụ để lại, không có mệnh lệnh nào của Chúa cả (Apol. Conf. Art. 13 n.6); họ coi đó “tựa như bí tích” (fictitium sacramentum ; Institutio christ.rel. IV 19,18).

Friday, May 16, 2014

NĂM ĐIỀU BẠN CHƯA BIẾT VỀ ĐỨC GIÊSU
Bài viết riêng cho CNN của Lm. James Martin, Dòng Tên, Tổng Biên Tập tạp chí America,tác giả tác phẩm "Đức Giêsu là một cuộc hành hương" (Jesus: A Pilgrimage) nhân mùa Phục Sinh 2014.
Mỗi khi đến mùa Phục Sinh là Đức Giêsu lại được nhắc đến rất nhiều kể cả theo lối tiêu cực do một số người mang nhiều thành kiến là Người chưa bao giờ thực sự hiện hữu. Hầu hết những gì chúng ta biết về Người thì đã được biết đến trong 2.000 năm qua. Nhưng nhờ có những tiến bộ trong sử liệu và ngành khảo cổ, các Kitô hữu nhiệt thành vẫn có những khám phá đầy kinh ngạc và mới mẻ về cuộc đời và thời đại của Người.
Đây là 5 điều có lẽ bạn chưa biết về Người:
1. Đức Giêsu xuất thân từ một làng quê hẻo lánh
Hầu hết các nhà khảo cổ bây giờ đồng ý rằng Nazareth chỉ có từ 200 đến 400 nhân khẩu. Toàn bộ Cựu Ước và sách Talmud không hề nhắc đến Nazareth. Còn trong Tân Ước nó thường được nhắc đến với một sự châm biếm, Tin Mừng theo Thánh Gioan kể rằng khi Nathanael nghe về một Đấng Messiah có tên là “Giêsu Nazareth”, ông đã hoài nghi ngay: “Ở Nazareth thì làm sao có gì hay ho ?”
2. Đức Giêsu không biết tất cả mọi sự
Đây là một nan đề gai góc của thần học. Nếu Người mang thần tính thì Người phải am tường tất cả. Thật vậy, trong nhiều dịp Người đã tiên báo về cái chết và sự trỗi dậy của mình. Tin Mừng theo Thánh Máccô ghi lại thoạt tiên Đức Giêsu thẳng thừng từ chối chữa bệnh theo yêu cầu của một phụ nữ không phải Do Thái: “Không thể lấy bánh của con cái mà ném cho chó được.” Nhưng khi chị ta trả lời rằng chó cũng được ăn mảnh vụn rớt xuống gầm bàn thì Người đã kinh ngạc và chữa lành cho đứa con gái của chị ta. Dường như Người nhận ra sứ vụ của mình không dừng ở nơi người Do Thái.
3. Đức Giêsu đã sống đời dầm mưa giãi nắng
Từ năm 12 đến 30 tuổi, Đức Giêsu làm công việc của một người thợ mộc tại Nazareth. Khi Người bắt đầu rao giảng dân chúng đã ngỡ ngàng: “Đây có phải là anh thợ mộc không ?” Nghề nghiệp của Người theo nguyên gốc Hy Lạp là tekton. Xưa nay vẫn quen dịch là thợ mộc. Nhưng hầu hết các học giả bây giờ đều cho rằng đó là một thứ tạp vụ, một số còn dịch là “người làm công nhật”. Một tekton có thể làm cửa, bàn ghế, giá đèn, lưỡi cầy. Nhưng có lẽ người cũng còn xây tường gạch hay phụ giúp vào việc xây nhà ( thợ hồ – Người thường đưa vào dụ ngôn những vật liệu này ). Đó là một nghề nghiệp cơ cực, phải kéo lê dụng cụ, các thanh gỗ và tảng đá trên toàn miền Galilê.
Đức Giêsu đâu có phải là loại người nổi đình nổi đám, nhảy vào hí trường thế giới sau một cuộc đời nhàn hạ của một bác phó mộc chỉ sống thoải mái tại nhà, hàng ngày chỉ ngắm nghía và trau truốt một vài thanh gỗ đâu. Trong 18 năm, Người đã làm việc cật lực và nặng nề. ( Thánh Luca đã nói về giai đoạn này một cách vắn gọn: "Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài. Có lẽ ta cần hiểu rằng Người đã chấp nhận gia cảnh nghèo hèn của cha mẹ, tức là từ khi còn rất trẻ Người đã phải làm lụng quần quật để mưu sinh ).
4. Đức Giêsu cần đến thời gian riêng
Tin Mừng thường nói về nhu cầu của Đức Giêsu tách khỏi đám đông và ngay cả các môn đệ nữa. Nếu có dịp đến thăm khu vực biển Galilê nơi Đức Giêsu thực hiện hầu hết các sứ vụ của Người, các bạn sẽ thấy các thị xã nằm rất san sát nhau. Tìm được một khoảng trống riêng cho mình là điều rất khó. Tại đó vẫn còn một cái hang nằm trên bờ biển gần với Capharnaum, khu vực tập trung các hoạt động của Người. Có lẽ Người đã thường đến đó để cầu nguyện. Hang đó có tên Eremos, nghĩa là hẻo lánh hay cô tịnh, từ đó phát xuất ra từ ẩn sĩ.
Dù là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu vẫn cần có thời gian sống một mình để cầu nguyện với Cha của Người.
5. Đức Giêsu không muốn chết
Khi gần đến cuộc thương khó, Người đã xin “cất chén này đi”. Đó là một lời cầu nguyện thống thiết với Cha mà Người gọi một cách trìu mến là Abba. Rõ ràng Người không muốn chết. Một số Kitô Hữu cho rằng Đức Giêsu yêu mến và mong chờ cái chết. Nhưng như tất cả mọi người khác, cái chết là một nỗi kinh hoàng đối với Người. Tâm hồn Thầy buồn đến chết được ( Mt 26, 38 ). Buồn đến chết tức là buồn ghê gớm vì không có gì ghê gớm bằng cái chết. Nhưng khi Người nhận ra đó là ý muốn của Cha thì Người bằng lòng đón nhận cái chết, ngay cả một cái chết trên thập giá.
Người ta thường nói về những khát vọng của họ khi xuyên tạc cuộc đời của Đức Giêsu. Nào là Người lấy Maria Mácđala làm vợ, sinh ra nhiều đứa con, ngao du qua Ấn Độ…
Chung cuộc lại Đức Giêsu không bao giờ là một vấn nạn lịch sử để người ta tìm hiểu, nhưng Người luôn luôn là một huyền nhiệm mời gọi mọi người đào sâu.
-----------------------------------
Lm. JAMES MARTIN, Dòng Tên,


Monday, May 12, 2014


Tìm ĐỨC MẸ để DÂNG HOA
+ GM JB. Bùi Tuần

----------------------
Những khi muốn dâng hoa lên Đức Mẹ, tôi thấy việc tìm kiếm hoa là việc khá quan trọng.

Nhưng đôi khi tôi có cảm tưởng rằng: TÌM ĐỨC MẸ, để DÂNG HOA, cũng là việc quan trọng không kém.

Photo: Tìm ĐỨC MẸ để DÂNG HOA
+ GM JB. Bùi Tuần
----------------------
Những khi muốn dâng hoa lên Đức Mẹ, tôi thấy việc tìm kiếm hoa là việc khá quan trọng.

Nhưng đôi khi tôi có cảm tưởng rằng: TÌM ĐỨC MẸ, để DÂNG HOA, cũng là việc quan trọng không kém. 

Tất nhiên, chỉ có một Đức Mẹ Maria. Nhưng Đức Mẹ Maria duy nhất của chúng ta vốn được gọi bằng nhiều tước hiệu, như Đức Mẹ Vô nhiễm, Đức Mẹ Mân côi, Đức Mẹ Fatima, Đức Mẹ Nữ vương v.v...

Thiết tưởng mỗi người sẽ gọi Mẹ bằng tước hiệu nào, mà mình ưa thích nhất. Phần tôi, tôi quen gọi Mẹ Maria của tôi bằng những tước hiệu không mấy sang trọng. Như: Mẹ là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi. Mẹ là Đấng an ủi kẻ âu lo. Mẹ là hy vọng của kẻ thất vọng.

Riêng những lần dâng hoa, tôi thường đặt hoa của tôi trước ảnh “Đức Mẹ Trái tim”. Tức là ảnh Đức Mẹ mở trái tim mình bốc lửa. Tôi hiểu lửa đó là tình yêu đau khổ.

Tôi dám chắc việc làm đó của tôi sẽ đẹp lòng Mẹ. Bởi vì tôi nhìn Đức Mẹ có rất nhiều đau khổ vì yêu mến Chúa và xót thương nhân loại.

Đức Mẹ đau khổ được nói trong Kinh Thánh.

Phúc Âm thánh Luca thuật lại: Khi thánh Giuse và Đức Mẹ Maria đem hài nhi Giêsu lên đền thờ, để tiến dâng cho Thiên Chúa theo Luật dạy, thì tiên tri Simeon đã nói với Đức Mẹ rằng: “Thiên Chúa đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 34)

Ngay liền đó, thánh Luca đã ghi một chi tiết ứng nghiệm lời tiên tri Simeon. Chi tiết đó là biến cố Đức Mẹ và thánh Giuse phải đau đớn đi tìm con mình trong ba ngày. Khi gặp được Chúa Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ đã không giấu nổi nỗi đau. Mẹ nói: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con” (Lc 2, 48).

Phúc Âm cho thấy: Đức Mẹ đã phải cực lòng, không phải chỉ lần đó, mà phải cực lòng trong suốt cuộc đời cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Đức Kitô. Dấu ấn cực lòng nhất là cảnh Đức Mẹ chứng kiến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thánh Gioan chỉ tả lại vắn tắt: “Đứng gần thập giá Đức Kitô, có thân mẫu Người...” (Ga 19, 25).

Như vậy, Mẹ đã đau khổ, vì chia sẻ trọn vẹn những đớn đau của Chúa Giêsu. Đó là một sự thực không thể thiếu được trong nhận thức của chúng ta.

Hơn nữa, Mẹ đã đau đớn, còn vì chia sẻ trọn vẹn những xót xa vô vàn của Chúa trước cảnh bao người tự huỷ mình trong mọi thời. Họ tự do chọn con đường tội lỗi dẫn xuống hoả ngục. Đó cũng là một sự thực ta không nên coi thường. 

Đức Mẹ đau khổ trong lịch sử hiện nay.

Tâm tình khổ đau của Mẹ đã được chính Mẹ tỏ lộ trong những lần Mẹ hiện ra. Khi hiện ra tại La Salette, tại Lộ Đức, tại Fatima, Đức Mẹ đã chỉ nhắc đi nhắc lại lời khuyên nhủ: Hãy ăn năn sám hối, hãy năng cầu nguyện và hy sinh, hãy trở về với Chúa. Mẹ nhắn nhủ bấy nhiêu đều với nét mặt buồn sầu.

Hơn nữa, Đức Mẹ không buồn sầu sao được khi nhìn vào một nền văn hoá biến chất đang chuyên chở một phần nhân loại. Nền văn hoá này đang có những khủng hoảng trầm trọng.

Khủng hoảng về thiếu chiều cao. Càng ngày càng bớt đi tình hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Càng ngày bổn phận tôn thờ Đấng Tạo Hoá càng bị quên lãng hoặc chối bỏ.

Khủng hoảng về thiếu chiều sâu. Rất nhiều người không hề tìm hiểu ý nghĩa đời mình, hướng đi đời mình, trách nhiệm đời mình. Mặc kệ đời sống mình trôi giạt trong khoảng trống mịt mù.

Khủng hoảng vì thiếu chiều ngang. Liên đới giữa người với người rất hẹp và căng. Cái tôi trở thành trung tâm. Xung quanh là bầu khí dửng dưng, thiên kiến, thù hận, sợ hãi, ganh tị, ghen ghét.

Khủng hoảng vì thiếu chiều kích nội tâm. Không quen, không thích và không có khả năng suy nghĩ, đào sâu tư tưởng, gạn lọc ước muốn, đối diện với các sự thực, nhất là sự thực về chính mình.

Khủng hoảng vì thiếu chiều kích tu thân. Thả lỏng nguồn khát vọng. Quên đi lời Kinh Thánh:
“Tuổi thọ đáng kính,
không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi.
Đối với con người, sự khôn ngoan còn quí hơn tóc bạc.
Sống không tì ố đã là sống thọ” (Kn 4, 8-9).

Nền văn hoá với những khủng hoảng kể trên đang dần dần ảnh hưởng xấu đến tôn giáo.

Chúng ta còn nhìn thấy điều đó. Phương chi Đức Mẹ càng thấy rõ hơn. Đức Mẹ thấy, Đức Mẹ buồn, Đức Mẹ muốn cứu, nếu chúng ta có thiện chí, biết vâng lời Đức Mẹ.

Đức Mẹ khổ đau trong khát khao cứu độ.

Tuy khổ đau vì tội lỗi chúng ta, nhưng Đức Mẹ với trái tim bốc lửa vẫn mãi là nguồn hy vọng của chúng ta. Tôi tin vững vàng điều đó. Bởi vì Đức Mẹ rất thương chúng ta. 

Ngoài ra, Đức Mẹ là Đấng đầy ơn Chúa Thánh Thần. Ngày truyền tin, thiên sứ đã nói với Đức Mẹ: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà... Đối với Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 35-37).

Với những lời bảo đảm trên đây của thiên sứ, chúng ta tin tưởng, khi dâng hoa và đời ta lên Đức Mẹ.

Phần tôi, Đức Mẹ mở trái tim bốc lửa vẫn là hình ảnh gợi ý. Không những gợi ý, mà còn như cần thiết. Nhất là những lúc thân phận yếu đuối của tôi cảm thấy mình cần được gần gũi một tình mẹ đầy xót thương, giàu sức cứu độ. Đặc biệt là những khi trí khôn tôi đã quá mệt mỏi, hầu như không còn khả năng tập trung suy nghĩ, thì sự nhìn một hình ảnh tình thương đẹp như hình ảnh Đức Mẹ Trái Tim sẽ được coi như rất hữu ích, để giúp tôi cầu nguyện với niềm tin vào lòng thương xót Chúa.

Hình ảnh Đức Mẹ Trái Tim không ở đâu xa. Tôi nhìn thấy gần tôi, hầu như ngay trong chính tim tôi.
----------------------------------------
Tất nhiên, chỉ có một Đức Mẹ Maria. Nhưng Đức Mẹ Maria duy nhất của chúng ta vốn được gọi bằng nhiều tước hiệu, như Đức Mẹ Vô nhiễm, Đức Mẹ Mân côi, Đức Mẹ Fatima, Đức Mẹ Nữ vương v.v...

Thiết tưởng mỗi người sẽ gọi Mẹ bằng tước hiệu nào, mà mình ưa thích nhất. Phần tôi, tôi quen gọi Mẹ Maria của tôi bằng những tước hiệu không mấy sang trọng. Như: Mẹ là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi. Mẹ là Đấng an ủi kẻ âu lo. Mẹ là hy vọng của kẻ thất vọng.

Riêng những lần dâng hoa, tôi thường đặt hoa của tôi trước ảnh “Đức Mẹ Trái tim”. Tức là ảnh Đức Mẹ mở trái tim mình bốc lửa. Tôi hiểu lửa đó là tình yêu đau khổ.

Tôi dám chắc việc làm đó của tôi sẽ đẹp lòng Mẹ. Bởi vì tôi nhìn Đức Mẹ có rất nhiều đau khổ vì yêu mến Chúa và xót thương nhân loại.

Có luyện ngục và "lâm-bô" như Giáo hội Công giáo quan niệm?

Giáo hội Công giáo quan niệm rằng sau khi chết ai còn mắc các tội nhẹ, thì phải đến ở trong luyện ngục, bị lửa thiêu trong một thời gian không ai biết được. Vì thế những người còn sống phải xin lễ mi-sa cho họ, để họ chóng lên thiên đàng. Nhưng Kinh thánh không dạy một điều nào như thế cả!? Kinh thánh cũng không nói gì tới ngục "lâm-bô" dành cho các trẻ em!

Những Khái Niệm Căn Bản Về Ơn Gọi


LM. JBM. Phương Anh, CSJB

Ơn Gọi là gì?

Ðể trả lời cho vấn đề, trước hết, chúng ta cần nói qua khái niệm về hai chữ “Ơn gọi”.
on goi
Ơn gọi là một tiếng gọi yêu thương của Chúa cho con người từ muôn thuở. Có một bài thánh ca chúng ta thường hát: “Từ muôn đời Chúa đã yêu con, và còn yêu con mãi mãi…” Ðã gọi là tiếng gọi từ muôn thuở, chúng ta không có thể nói rằng, Chúa gọi tôi cách đây mấy năm, hay Chúa vừa gọi tôi, hay tôi chờ xem Chúa có gọi tôi hay không…, nhưng phải nói rằng, Nếu Ngài gọi, Ngài đã gọi tôi từ lâu rồi, từ khi tôi chưa được sinh ra, từ khi chưa có loài người sống trên mặt đất, từ khi chưa có sao trời, rừng sâu và biển cả… Tiếng gọi của Ngài dành cho tôi đã phát xuất từ chính Ngài, vang vọng vào không gian, vào vũ trụ vô hình bằng những làn sóng mắt thường không trông thấy, và Ngài mong một ngày nào đó tôi nghe được tiếng gọi đó.
ƠN GỌI THỨ NHẤT: LÀM CON THIÊN CHÚA
Thời điểm ơn gọi thứ nhất đến với mỗi người chúng ta có thể mỗi khác: người được rửa tội từ khi mới sinh, người lúc lên mười, hai mươi, có người mãi đến lúc về chiều mới lần đầu tiên gặp được Chúa… Nhưng chung quy, tất cả chúng ta, những người Kitô hữu đều có ơn gọi này ơn gọi làm con Thiên Chúa. Ðây là một ơn Chúa ban cho chúng ta cách nhưng không, là một món quà vô giá mà không phải ai cũng có – Chúa ban cho ai, người ấy được. Người ta có thể tốn cả triệu đôla mà chưa chắc đã mua được món quà này. Ðây chính là ơn gọi thứ nhất trong cuộc đời của một con người, chúng ta gọi là ơn gọi căn bản và phổ quát, căn bản vì là ơn gọi đầu tiên, phổ quát vì chung cho mọi người Kitô hữu.
Qua phép Rửa, Thiên Chúa thông ban ơn cứu độ cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô. Việc gia đình ông Noê được cứu thoát khỏi nước lụt đại hồng thủy được kể lại trong Cựu Ước là hình ảnh tiên báo cho Bí Tích Rửa Tội sau này trong thời Tân Ước. Trong Phép Thanh Tẩy, Thiên Chúa giơ tay Ngài ra để cứu thoát chúng ta khỏi những trận lụt của khốn khổ, khỏi sự nhận chìm trong những vũng bùn sâu của tội lỗi. Hơn nữa, sau khi Chúa cứu thoát ông Noê khỏi bị lụt, Ngài đã tạo nên chiếc cầu vồng như dấu chỉ của Tình yêu và lòng thương xót của Ngài. Cầu vồng là một dấu hiệu cho biết rằng, lụt lội và nguy hiểm đã qua rồi. PHÉP RỬA TỘI là CHIẾC CẦU VỒNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU. Ngay cả sau khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta sẽ vẫn còn thấy những đám mây ác thần vây phủ chúng ta; chúng ta sẽ vẫn còn thấy những tiếng sấm gầm vọng từ xa của thù địch chỉ muốn tiêu diệt chúng ta. Nhưng Bí tích Rửa tội luôn làm cho chúng ta ý thức rằng, chúng ta không phải sợ hãi những thứ sấm sét bão tố đó đang đe dọa cuộc sống chúng ta. Bí tích Rửa tội vẫn luôn luôn là dấu chỉ của lòng thương xót và Tình yêu Thiên Chúa, qua đó, Ngài không cho phép nước lụt của thù địch và của sự dữ tiêu diệt chúng ta.
Trong Ðêm Phục sinh, chúng ta được mời gọi để lập lại lời hứa Rửa tội. Vấn đề của chúng ta là, chúng ta có ý thức những gì chúng ta tuyên xưng trong lời hứa đó không? Chúng ta cần nhớ lại chúng ta đã hứa những gì qua cha mẹ đỡ đầu, hoặc do chính chúng ta hứa nếu chúng ta chịu phép rửa tội khi đã khôn lớn? Thánh Phêrô cho rằng, điểm cốt yếu trong lời hứa Rửa tội đó là “một lương tâm thiện hảo” (I Pr 3:21). Bí tích Rửa tội là một khế ước, một thỏa thuận giữa chúng ta và Thiên Chúa: Thiên Chúa hứa ban cho chúng ta Tình yêu và lòng thương xót của Ngài, và chúng ta hứa sẽ sống trung thành với Ngài. Ngài trở thành Chúa chúng ta và chúng ta trở thành dân của Ngài.
Việc lập lại lời hứa rửa tội phải được tiếp nối cách sống động trong đời sống hằng ngày của chúng ta, nghĩa là chúng ta phải luôn nghiêm chỉnh ý thức sống ơn gọi thứ nhất này. Sau ơn gọi thứ nhất này, chúng ta có bổn phận đi tìm thánh ý Chúa cho ơn gọi thứ hai của mình, ơn gọi có “ơn làm con Thiên Chúa” làm nền tảng.
ƠN GỌI THỨ HAI: ƠN GỌI TU TRÌ HOẶC ƠN GỌI HÔN NHÂN
Trong ơn gọi thứ nhất, chúng ta trở thành người con Thiên Chúa và người môn đệ của Chúa Giêsu. Với tư cách là môn đệ, chúng ta mãi mãi được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh của mình. Những lời mời gọi của Chúa Giêsu luôn theo đuổi cuộc đời chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”.
Vì thế, dù chúng ta chịu phép rửa tội vào lứa tuổi nào chăng nữa, đức tin vẫn luôn đòi hỏi chúng ta phải mãi mãi trung thành với lời chúng ta hứa khi chịu phép rửa tội: “Từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những quyến rũ bất chính, từ bỏ ma quỷ; Tin Thiên Chúa là Cha, là Ðấng tạo thành trời đất, tin Ðức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha, tin kính Ðức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống đời đời…”
Sau khi nhận bí tích đầu tiên đó, chúng ta tiếp tục lãnh nhận các bí tích khác để giúp chúng ta kiên trì và thăng tiến trong đời sống ơn gọi căn bản của mình. Ðặc biệt, sau ơn gọi thứ nhất đó, Chúa còn mời gọi chúng ta bước theo Ngài trong ơn gọi thứ hai trên hành trình đức tin: Hoặc là ơn gọi đời sống hôn nhân, hoặc là ơn gọi sống đời sống tu trì.
Không sớm thì muộn, ai trong chúng ta cũng đều phải chọn lựa một trong hai ơn gọi đó: Ði tu hay lập gia đình?
“ÐÀN ÔNG Ở MỘT MÌNH KHÔNG TỐT”:
gia dinhÐây là câu nói trong sách Sáng thế ký, cuốn đầu tiên của Cựu Ước, đoạn 2 câu 18 (Tiếng Anh: “It is not right that the man should be alone”).
Câu Lời Chúa này gợi cho chúng ta hai vấn đề:
1) Từ khởi nguyên, Chúa tỏ ý rằng, Ngài muốn con người sống có đôi. Nhiều người dùng câu nói Kinh Thánh này để biện luận khi họ không muốn đi tu – “Ðàn ông ở một mình không tốt” như vậy phải lấy vợ… – Cũng có lý, nhưng cần phải hiểu rằng, Chúa, nhất là trong Tân Ước, đồng thời cũng mời gọi chúng ta bước một bước xa hơn nữa trên con đường hẹp của Tin Mừng, để sống hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng một tình yêu không chia sẻ. “Ðức Giêsu kêu gọi một số người đi theo Ngài cách gần gũi hơn để Giáo Hội trở thành một dấu hiệu hùng hồn của ơn vinh thắng” (Trích từ Sứ Ðiệp được truyền đi từ Thượng Hội Ðồng Giám Mục, tháng 10/94 tại Roma).
2) Ðàn bà ở một mình có tốt không? Có người nói: Ðàn ông ở một mình không tốt, đàn bà ở một mình thì tốt. Không biết chắc chắn ý Chúa thế nào đối với người phụ nữ, nhưng tôi thiển nghĩ, Nếu “đàn ông ở một mình không tốt”, thì đàn bà ở một mình càng không tốt hơn!… – Dường như con rắn đã khôn ngoan tìm lúc không có người nào bên cạnh người phụ nữ để cám dỗ…
Tắt một lời, dù đồng ý rằng sống độc thân ở giữa đời cũng là một ơn gọi, nhưng cách chung, dựa theo Lời Chúa, tôi không “recommend” các bạn trẻ, nam cũng như nữ, sống độc thân giữa đời.
Như vậy, chúng ta tạm để qua một bên cái “choice” thứ ba này.
HAI ƠN GỌI, HAI BẬC SỐNG
Như vừa nói trên, chúng ta sẽ phải chọn lựa một trong hai ơn gọi: một là đi tu, hai là lập gia đình, chứ không ai “bắt cá hai tay” được cả! Ðó là người sống tích cực. Hai ơn gọi này dẫn đến hai bậc sống khác nhau: bậc sống tu trì và bậc sống gia đình.
Hai bậc sống này có những điểm giống nhau, như: họ đều phải nỗ lực để nên thánh, xây dựng Giáo Hội, truyền giáo… Nhưng cũng có những điểm khác nhau, như: đời sống gia đình lo việc truyền sinh về thể lý, mặc dù có góp phần về đời sống tinh thần, còn đời sống tu trì chuyên lo việc truyền sinh về đời sống thiêng liêng; Mọi người đều thuộc về dân Thiên Chúa, nhưng các tu sĩ, linh mục, nhất là Giám mục là những người ở “cấp lãnh đạo” dân của Người, mặc dù họ cũng là một phần tử trong dân của Người; tình yêu trong đời sống gia đình tuyệt đẹp, nhưng trong đời sống tu trì, xét theo bản chất còn đẹp hơn nhiều!… Mong các bạn khôn ngoan chọn lựa!…
Chúng ta sẽ bàn về những điểm tương dị của hai ơn gọi này ở hai bài chia sẻ khác.
YẾU TỐ TÌNH YÊU TRONG MỌI ƠN GỌI
Như chúng ta vừa nói ở trên, có hai ơn gọi, vấn đề là chúng ta có thực sự sống ơn gọi của mình hay không. Ðể hiểu và sống ơn gọi, chúng ta cần phải hiểu yếu tố quan trọng của ơn gọi: TÌNH YÊU.
Trong phần này, tôi xin nhường lời cho Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ nói:
“Một cách đơn giản, ơn gọi là một tiếng gọi để tôi hoàn toàn lệ thuộc vào Ðức Kitô, với ý thức rằng, không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Người.
“Ơn gọi là một lời mời gọi để sống trong tình yêu với Thiên Chúa và để minh chứng tình yêu đó.
“Tôi yêu mến Chúa thế nào? Tôi minh chứng tình yêu của tôi cho Thiên Chúa thế nào?
“Thưa, bằng cách làm thật tốt đẹp công việc được trao phó, bằng cách thực hiện một cách đơn sơ những gì Chúa ủy thác cho tôi dưới bất kỳ dạng thức nào.
“Chẳng hạn như cuộc sống của các chị em đã tuyên khấn – đúng như trên thực tế, họ đã trở thành hiền thê của Chúa Giêsu chịu đóng đinh – đó là ơn gọi của họ: yêu Chúa Giêsu bằng một tình yêu không chia sẻ, qua đức khiết tịnh, qua sự tự ý sống thanh bần, qua việc hoàn toàn từ bỏ mình trong đức vâng phục, và qua việc tự ý hết lòng phục vụ những người nghèo nhất của những người nghèo. Họ minh chứng tình yêu của họ đối với Thiên Chúa bằng việc đặt tình yêu đó trong những hành vi sinh động.

“Như thế, dù bạn được trao phó cho bất kỳ công việc gì, với tư cách một tu sĩ, hay một giáo dân – đó là phương tiện cho bạn để bạn dành tình yêu của bạn cho Thiên Chúa trong một hành vi sinh động, trong một hành vi của tình yêu… Bất kỳ khi nào bạn mỉm cười với một người nào đó, nụ cười đó là một hành vi của tình yêu, là một món quà cho người đó, một cái gì thật đẹp…
“Do đó, nếu tôi biết làm thế nào để yêu mến Ðức Kitô, nếu tôi muốn biết tôi có thực sự ở trong tình yêu với Thiên Chúa không, tôi chỉ cần nhìn xem tôi đã làm công việc Ngài đã trao phó cho tôi như thế nào – Có bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào trong công việc của tôi.
“Bạn thấy đó, Vấn đề của ơn không hệ tại ở chính công việc – ơn gọi của chúng ta là trọn thuộc về Ðức Giêsu với ý thức rằng, không gì có thể tách lìa chúng ta ra khỏi tình yêu của Người.
“Ơn gọi không phải là những gì chúng ta đang làm, hay chúng ta làm được bao nhiêu việc, mà là bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào công việc tôi đã được trao phó.
“Những gì bạn đang làm, có thể tôi không làm được… Những gì tôi đang làm, có thể bạn không làm được, nhưng tất cả chúng ta đều có thể làm cái gì đó thật đẹp cho Thiên Chúa”. 

(Trích dịch từ “The best Gift is Love / Meditations by Mother Teresa”, tr.113-116).



GIÁO HỘI CẦN THIẾT ra sao
Cho Những Ai MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ?
-----------------------------------------------
Hỏi: Có thể sống đức tin và được cứu độ KHÔNG cần đến Giáo Hội?

Trả lời: Chúa Kitô đã thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng cácTông Đồ khi Chúa nói với Phêrô: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,và quyền lực tử thần sẽ không thắng nỗi.” (Mt 16:18)

Chúa lập Giáo Hội như phương tiện hữu hiệu cần thiết để chuyên chở ơn cứu độ của Người đến cho muôn dân không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ và văn hóa.

Bởi vì “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1Tm 2:4).

Sunday, May 4, 2014

Khiêm-Nhường và Kiêu-Ngạo

Trong tiếng Việt, có một sự trùng hợp thú vị giữa hai tánh hoàn toàn đối lập: Khiêm Nhường và Kiêu Ngạo đều viết tắt là K.N. Ai ai cũng mến người khiêm nhường và ghét người kiêu ngạo, nhưng đào luyện được tánh khiêm cho chính mình không phải dễ, vì kiêu căng hình như là bản tánh của loài người. Tác giả truyện “Tây Du Ký” muốn nêu lên tâm lý con người giống con khỉ Tôn Ngộ Không trước khi bị bắt phục là muốn bằng trời (nên tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh). Thánh Kinh cho biết con người tuy là con cái của Thượng Đế mà lại học đòi nết xấu của Satan. Theo sách Isaia (14,12-15), Satan chính là thiên sứ Lucifer phản nghịch muốn dành quyền tể trị của Đức Chúa Trời, đã cám dỗ bà Êva ăn trái cấm mà phạm tội bất tuân.

Friday, May 2, 2014

Nguồn gốc tháng Hoa kính Đức Mẹ

Là người Công giáo tại Việt Nam, nhất là những ai đã lớn lên trong một xứ đạo miền Bắc, Trung hoặc Nam, có lẽ họ không lạ gì sinh hoạt tôn giáo trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ.
Khi ngàn hoa xanh, đỏ, trắng, tím, vàng nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời. Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhất là bài "Đây Tháng Hoa" của nhạc sĩ Duy Tân với điệu 2/4 nhịp nhàng:
ĐK. Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà. Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa.
1. Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần. Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng. Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời. Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời.
2. Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về. Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi. Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ. Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời.