Sunday, October 23, 2022

LUYỆN TẬP NHÂN ĐỨC

  1. KHÁI NIỆM VỀ CÁC NHÂN ĐỨC

(Nhân đức tự nhiên và nhân đức siêu nhiên)

  1. Định nghĩa

Nhân đức là một danh từ rất khó hiểu, nó vốn trừu tượng, lại có nhiều nghĩa khác nhau. Theo nguyên tự Hán Việt, nhân đức là điều hay, người ta cứ lòng ngay, lòng tốt mà làm. Theo người Rôma, nhân đức (virtus) là một sức mạnh tinh thần, phải kiên gan trì chí mới tập được. Theo Thánh Tôma, nhân đức là tập quán hoàn hảo con người để hành động cho tốt.

Xét về mặt nhân đức tập thành, thì nhân đức là do thói quen, do tập luyện mà có, khiến ta làm điều thiện cách dễ dàng, mau mắn và thích thú.

  1. Phân loại

Người ta phân ra nhân đức tự nhiên và siêu nhiên.

2.1. Nhân đức tự nhiên: Nhân đức tự nhiên là tập quán của linh hồn, do công luyện tập mà được, khiến ta dễ dàng mau mắn và thích thú làm điều thiện. Phù hợp với lẽ phải. Chẳng hạn đức ái nhân nơi một lương dân.

2.2. Nhân đức siêu nhiên: Nhân đức siêu nhiên không phải là tập quán làm điều thiện cách dễ dàng, nhưng là tài năng Chúa phú vào linh hồn một trật với ơn thánh sủng, khiến ta có khả năng làm việc siêu nhiên, đáng thưởng đời sau.

Các nhân đức siêu nhiên là do Thiên Chúa phú vào linh hồn nên cũng gọi là nhân đức thiên phú. Chẳng hạn đức ái nhân của người giáo hữu.

Hai thứ nhân đức này khác xa nhau lắm. Nhân đức tự nhiên do luyện tập mà có được, còn nhân đức siêu nhiên do Chúa phú vào linh hồn cách nhưng không.

Nhân đức tự nhiên khi đã tập thành khiến ta làm việc thiện cách dễ dàng, mau mắn và thích thú. Còn nhân đức siêu nhiên ban đầu mới chỉ là một khả năng để ta làm được những việc siêu nhiên đáng thưởng đời đời, nhưng phải tập luyện mới trở thành tập quán làm điều thiện cách dễ dàng được.

Sau hết, nhân đức tự nhiên nhằm sự thiện tự nhiên và hướng về Chúa tạo thành; còn nhân đức siêu nhiên nhằm sự thiện siêu nhiên và hướng về Chúa Ân Sủng, như Đức Tin đã mạc khải.

Khỏi nói về 3 nhân đức đối thần, các nhân đức luân lý tự nhiên đều hoá nên nhân đức siêu nhiên nơi người giáo hữu, vì chúng được Thiên Chúa phú vào linh hồn, được thực hành bởi lý do đức tin, dưới sự thúc đẩy của ơn hiện sủng. Chẳng hạn, lương dân yêu người vì tình nhân đạo và lẽ tự nhiên; còn người giáo hữu, ngoài lý do đó, thì yêu người trên hết là vì tình huynh đệ siêu nhiên và ân sủng thúc giục.

Có biết như thế ta mới hiểu tại sao người giáo hữu có thể yêu thương cả thù địch và giúp đỡ người khác, có khi hy sinh đến cả tính mệnh.

  1. Nhân đức luân lý siêu nhiên

Xét theo đối tượng, nhân đức chia ra đối thần và luân lý.

Đức đối thần là quy thẳng vào Thiên Chúa.

Đức luân lý giúp ta sửa trị tính nết, gạt bỏ chướng ngại, lo liệu phương thế, để tiến tới sự kết hiệp cùng Chúa, nghĩa là hướng về Chúa cách gián tiếp.

Để hướng dẫn đời sống tinh thần, lý trí và đức tin đã vạch sẵn cho ta những quy tắc phải giữ, cũng như trong đời sống thể xác, lý trí đã vạch cho ta những vệ sinh căn bản (ăn, ngủ, mặc…) mà ta không thể phế bãi được. Những quy tắc căn bản đời sống tinh thần gọi là nhân luân, nghĩa là trật tự con người phải giữ. Giữ được nhân luân cho thích trung, đó gọi là nhân đức luân lý hay luân lý vậy.

Luân đức rất nhiều, nhưng đều quy về 4 đức trụ bản, gọi tắt là bản đức. Gọi là bản đức vì chúng là nền móng cho các đức khác tựa vào. Bốn bản đức là: khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ.

Đức khôn ngoan giúp ta tìm các phương tiện tối hảo để đạt cứu cánh siêu nhiên, là Thiên Chúa.

Đức công bình khiến ta tôn trọng quyền lợi người khác, để bảo tồn sự hoà thuận giữa anh em.

Đức can đảm giúp ta bảo vệ sinh mạng và quyền lợi của mình, chịu đựng các thử thách, thực hành công việc khó khăn để đạt tới hạnh phúc trường sinh.

Đức tiết độ giúp ta kềm hãm các dục tình và bắt chúng tuân theo luật Chúa.

Tóm lại, đức công bình điều chỉnh bổn phận ta với tha nhân, đức can đảm và tiết độ điều chỉnh bổn phận ta đối với bản thân. Còn đức khôn ngoan thì hướng dẫn các nhân đức khác.

Mỗi bản đức lại sinh ra nhiều đức khác, không thể đề cập hết được. Ở đây, ta sẽ bàn về các bản đức và mấy đức liên hệ quan trọng mà thôi.

  1. Khôn ngoan
  2. Công bình: thờ phượng – phục tùng
  3. Can đảm: khoát đạt – quảng đại – nhẫn nhục – kiên nhẫn
  4. Tiết độ: thanh khiết – khiêm nhường – hiền lành – thanh bần
  5. Ba nhân đức khấn dòng.
  6. NHÂN ĐỨC KHÔN NGOAN
  7. Khái niệm về đức khôn ngoan

Trong điều này ta sẽ bàn về: Bản chất và yếu tố đức khôn ngoan.

1.1. Bản chất

Khôn ngoan là nhân đức siêu nhiên, khiến ta biết lựa chọn những phương thế thích hợp với mỗi hoàn cảnh, để đi đến thành công, hầu đạt tới hạnh phúc trường sinh.

Khôn ngoan đây không phải là khôn ngoan tự nhiên, khôn ngoan xác thịt, nhưng là khôn ngoan siêu nhiên.

Khôn ngoan xác thịt là tìm phương kế gian ngoan để đạt mục đích bất chính, hoặc để mưu lợi ích chính đáng nhưng cách bất chính. Thánh Phaolô đã lên án sự khôn ngoan ấy, vì nó đối nghịch cùng Thiên Chúa.

Khôn ngoan tự nhiên cũng gọi là khôn ngoan thế gian chỉ lo đạt mục đích đời này, không lo gì đến Thiên Chúa và đời sau. Ở đây cần phải nhắc lại Lời Chúa: “Được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì.” (Mt 16,26).

Khôn ngoan đây là khôn ngoan siêu nhiên, dựa vào nguyên tắc đức tin và quy hướng mọi sự về Thiên Chúa. Nó chi phối tư tưởng, tình cảm, ý chí và hành động của ta để quy hướng đời ta về cùng Thiên Chúa.

Đức khôn ngoan là ở tại trí năng, vì trí năng lo việc suy xét, lựa chọn phương tiện thích hợp cho mỗi hoàn cảnh. Ngoài những nguyên tắc chung, người khôn ngoan còn phải biết những chi tiết thực tế, mới trông áp dụng cho nhằm được. Tuy nhiên, ý chí cũng có phần phải đóng góp, vì nó phải truyền cho trí năng tìm tòi phương tiện và quyết định thi hành.

1.2. Yếu tố

Muốn hành động khôn ngoan phải có 3 yếu tố: suy nghĩ cho chín chắn, quyết định cho khôn ngoan và thực hành cho chu đáo.

1.2.1. Suy nghĩ

Trước hết, phải suy nghĩ cho chín chắn, mới tìm ra các phương tiện xứng hợp. Việc càng quan trọng càng phải suy nghĩ kỹ hơn. “Một người lo bằng một kho người làm.” Vậy phải biết suy nghĩ và bàn hỏi.

– Suy nghĩ: Phải suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai.

Lịch sử loài người nói chung và kinh nghiệm bản thân nói riêng, là những bài học vô giá, dạy cho ta biết đường xử thế. Hoàn cảnh hiện tại cũng phải được lưu ý, vì mỗi cảnh, mỗi người, mỗi thời, mỗi thế hệ đều có khuynh hướng, tập tục, tâm lý và điều kiện riêng, ta phải biết, để hành động cho đắc lực. Hoàn cảnh tương lai cũng phải được dự phòng, nghĩa là dự đoán các biến chuyển, phản ứng và công hiệu việc làm của ta, để mà phòng bị đối phó, nếu cần.

Tóm lại, phải nhìn lại quá khứ, dự bị tương lai mới có thể tổ chức hiện tại được.

– Bàn hỏi: Suy nghĩ một mình chưa đủ, còn phải bàn hỏi người khôn ngoan từng trải. Đáo cuộc giả mê. Người đứng ngoài thường nhìn thấy những khía cạnh mà ta không thấy. Đấng ta phải bàn hỏi trước tiên là cha linh hướng, vì ngài vô tư và hiểu thấu ta hơn. Đồng thời phải cầu xin Chúa Thánh Thần, là Cha sự sáng, là Thầy dạy rất khôn ngoan.

1.2.2. Quyết định

Sau khi đã suy nghĩ, phải xét đoán và quyết định những phương thế nào là hiệu nghiệm hơn cả. Muốn phê phán cho đúng, hãy gạt bỏ những thành kiến, đam mê tình cảm, thường làm lệch cán cân lý trí; trái lại phải đứng về phía Đức Tin mà xét đoán mọi công việc. Đừng hời hợt hãy cân nhắc lẽ thuận, lẽ nghịch cho sâu sắc, phân minh. Nhưng cũng không nên lưỡng lự hoài, mà phải biết quyết định điều nào mình thấy là hợp, là tốt hơn cả.

1.2.3.Thực hành

Sau hết, phải thực hành điều quyết định cho chu đáo. Muốn thế phải biết dự phòng, thận trọng và cảnh giới.

– Dự phòng là ước lượng nghị lực cần thiết, dự liệu phương tiện để thắng trở lực có thể xảy đến.

– Thận trọng là ngó trước nhìn sau, để tìm điều thuận mà lợi dụng, điều nghịch mà phòng ngừa.

– Cảnh giới là có sẵn một phương sách để đối phó với sự bất ngờ. Sự khôn ngoan của ta có hạn. Dầu chuẩn bị đến đâu, vẫn có thể có chuyện chẳng lành xảy tới trên đường nhân đức cũng như đường thế sự. Vậy phải cẩn thận đề phòng, để khỏi bị đánh úp mà thua trận.

  1. Sự cần thiết của đức khôn ngoan

Đức khôn ngoan cần thiết cho sự thánh hoá và tông đồ.

2.1. Muốn thánh hoá bản thân, phải tránh lánh tội lỗi và tập tành nhân đức. Muốn tránh tội lỗi cần biết căn nguyên và cơ hội sinh ra tội, đồng thời tìm ra các phương dược thần diệu mà áp dụng cho chu đáo. Những điều ấy, chỉ có đức khôn ngoan mới làm được.

Muốn tập nhân đức và kết hiệp cùng Chúa, cũng cần phải nhờ đức khôn ngoan. Đức tại trung dung, nếu không khôn ngoan thì làm sao tránh khỏi thái quá hoặc bất cập? Nhiều nhân đức lại xem như tương khắc, thí dụ: công bình với nhân hậu, can đảm với hiền lành, thương người với thánh khiết, làm thế nào mà dung hoà được, nếu không có đức khôn ngoan cầm cân nảy mực và chế chẩm cho khéo léo?

2.2. Vả lại, muốn làm tông đồ, càng phải khôn ngoan hơn nữa. Theo nhận xét của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng: làm ích cho các linh hồn, đâu có phải dễ. Người ta ai cũng có lòng tự ái, nhất là vấn đề lương tâm. Đức khôn ngoan sẽ dạy cho biết phải tế nhị khi giao tiếp, dè dặt lúc khuyên lơn, biết gây thiện cảm, biết đợi thời đợi dịp, biết áp dụng phương tiện cho mềm mỏng. Một vị linh mục, trong việc cai quản và thánh hoá đoàn chiên, cần phải khôn ngoan mới trông thành công được.

  1. Cách thế tập luyện đức khôn ngoan

Phương tiện chung cho mọi nhân đức, luân lý cũng như đối thần, là siêng năng cầu nguyện, để thông cảm với Chúa Giêsu và hấp thụ các đức tính của Ngài. Nguyên tắc chung này sẽ áp dụng cho hết các nhân đức. Sau không cần nhắc lại nữa, muốn nên khôn ngoan, việc trước hết là phải năng cầu xin ơn ấy cùng Chúa, như lời Thánh Giacôbê dạy: “Trong anh em, ai thiếu khôn ngoan, hãy kêu xin cùng Chúa, tất Ngài sẽ ban cho dư dật.” (Gc 1,5).

3.1. Tổng tắc

Tổng tắc đức khôn ngoan là quy hướng mọi sự về cứu cánh siêu nhiên. Đối với khởi sinh, cứu cánh ấy là phần rỗi linh hồn; nhưng đối với đạt sinh cứu cánh ấy là sự vinh danh Chúa. Quan niệm sau quan trọng hơn quan niệm trước, nhưng không phải ai cũng thực hiện được.

Trong thực tế, ta nên chọn một châm ngôn đạo đức, để hằng ngày chiêm niệm và cố gắng sống theo. Thí dụ: lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn, nào được ích gì? Chỉ có sự đời đời là đáng kể. Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến.

3.2. Áp dụng

3.2.1. Áp dụng cho khởi sinh: Khởi sinh nên dùng tổng tắc trên mà trừ khử những tính xấu nghịch đức khôn ngoan, vì thái quá hoặc vì bất cập.

+ Thái quá:

– Sự khôn ngoan xác thịt chỉ tìm thoả mãn dục tình; bất phân phúc tội. Nên nhớ: lạc thú mau qua, thiên đàng còn mãi.

– Tính quỷ quyệt chuyên dùng mưu mô, gian dối. Nên nhớ: thật thà là cha quỷ quái. Phải khôn ngoan như con rắn, nhưng phải ngay thật như bồ câu.

– Tính lo lắng quá đỗi về tương lai và của cải. Hãy ôn lại bài học quan phòng của Chúa.

– Thành kiến và đam mê làm thiên lệch sự phê phán và lựa chọn. Phải khách quan và bình tĩnh mới được.

+ Bất cập:

– Tính nhẹ dạ, vô tâm, hấp tấp hay làm cho hỏng việc.

– Đi đâu mà vội mà vàng, mà mắc phải lưới mà quàng phải dây! 

– Tính do dự, bất kiên, cẩu thả phải diệt trừ bằng sự quyết đáp, chu đáo và cẩn mật.

– Lỗi lời nói: khởi sinh chưa gột rửa được tinh thần thế tục, nên còn hay lỗi sự khôn ngoan trong lời nói. Vậy phải cẩn ngôn, “uốn lưỡi bảy lần rồi mới nói”.

Vàng thì thử lửa, thử than.Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.

3.2.2. Áp dụng cho tiến sinh: Tiến sinh hãy suy gẫm ngôn ngữ và hành vi đầy khôn ngoan của Chúa trong Phúc Âm, để cảm thông và mô phỏng. Giáo lý của Ngài về đức khôn ngoan và toát lược trong mấy câu: “Hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính Ngài trước đã. Hãy khôn ngoan như con rắn và thật thà như bồ câu.” (Mt 6,33; 10,16). “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.” (Mt 13,33). Còn gì khôn ngoan bằng cách Chúa đối đáp với kẻ thù, cách Ngài dạy dỗ dân chúng qua các dụ ngôn tài tình linh động, và cách Ngài đào tạo các tông đồ, vừa dịu dàng, vừa mạnh mẽ! Ngắm gương ấy, gẫm lời kia, cầu nguyện cho sốt sắng, đó là cách tối hảo tập đức khôn ngoan vậy.

III. ĐỨC CÔNG BÌNH

  1. Khái niệm về đức công bình

1.1. Định nghĩa

Công bình là nhân đức làm cho ta sẵn lòng trao trả quyền lợi hoặc tài sản của ai cho người ấy.

Đó chỉ là áp dụng nguyên tắc tự nhiên: “của nào thuộc chủ ấy”, mà ai ai cũng công nhận. Chúa Giêsu đã dạy “hãy trả cho Xêda cái gì của Xêda” (Mt 23,24). Khổng Tử cũng nói rằng “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.

Đó là khuôn vàng thước ngọc ta phải cứ trong việc cư xử với tha nhân. Có công bình mới có an ninh trật tự. Phải, có công bình người ta mới biết tôn trọng quyền lợi nhau, tránh thói gian tham, giữ lòng ngay thật, gạt bỏ bất công và nhờ thế, duy trì được an ninh xã hội.

1.2. Phân loại

1.2.1. Công bình chung: Công bình chung chi phối sự liên lạc giữa xã hội với tư nhân. Đối với xã hội, tư nhân phải biết ơn và sẵn sàng đóng góp tiền của sức lực, mà xã hội có quyền đòi hỏi. Ích chung trọng hơn ích riêng, nên khi cần, nhân dân cũng phải hy sinh tính mạng và tài sản, ít là một phần vì công ích. Ngược lại, xã hội phải bảo đảm tính mạng, tài sản và quyền lợi của tư nhân. Lại phải tuỳ tài lực người ta mà trọng dụng, tuỳ tội phúc mà thưởng phạt, kẻo lỗi đức công bình phân phối.

1.2.2. Công bình riêng: Công bình riêng chi phối sự liên lạc giữa tư nhân với tư nhân. Chẳng những ta phải tôn trọng quyền sở hữu về của cải, mà cả các quyền lợi khác về thể xác hoặc tinh thần, như tính mạng, danh giá, tự do của người ta nữa.

  1. Thực hành đức công bình

2.1. Về tài sản

Phải tôn trọng tài sản người ta, tránh ăn cắp vặt, gian lận, quanh co, trong điều nhỏ mọn cũng thế. Công nợ không nên vay khi không chắc trả được. Nếu đã vay thì liệu trả cho sớm. Đồ đạc sách báo mượn của ai phải giữ cẩn thận như của mình và phải nhớ trả càng sớm càng tốt. Nếu chẳng may hư hỏng cách nào thì phải bồi thường cho xứng. Tiền bạc người ta ký thác, tài sản của hội đoàn phải sổ sách phân minh, để lỡ mình có chết bất ngờ, người ta khỏi thiệt hại. Nếu là linh mục, phải giữ sổ lễ và sổ của chung cho minh bạch, để chẳng may mình có qua đi, người ta biết đường mà liệu.

2.2. Về danh giá

Phải tôn trọng danh thơm tiếng tốt người ta.

2.2.1. Tránh võ đoán: Phải tránh sự võ đoán, cũng gọi là xét đoán dông dài, nghĩa là kết tội người ta theo sự bề ngoài, không rõ căn nguyên, không tường lý sự, chỉ nghe theo thiên kiến hoặc dục vọng của mình.

Võ đoán là tiếm đoạt quyền của Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài có quyền phán xét loài người. Võ đoán cũng là tội bất công, vì lên án khi chưa nghe người ta tự bào chữa. Theo đức công bình và bác ái, ta hãy giữ đừng xét đoán ai khi mình không có phận sự; hoặc nếu có xét đoán thì xét đoán rộng cho người ta hết sức.

2.2.2. Tránh nói hành: Phải tránh tật nói hành, nghĩa là tỏ tội lỗi hay nết xấu kín nhiệm của người ta, mặc dầu là có thực. Kẻ bị nói xấu, lẽ dĩ nhiên là buồn rầu, khi thấy danh giá mình bị tổn thương, uy tín mình bị suy giảm, và bởi đó, công việc mình bị thiệt thòi.

2.2.3. Tránh vu cáo: Phải tránh vu cáo, nghĩa là đổ lỗi cho người ta khi người ta không có. Tội bất công này thường là con đẻ của tính độc ác và ghen tị. Một kẻ nói ra, trăm người hoạ lại, danh tiếng người ta chẳng mấy chốc đã bị xé rách tơi bời, thiệt hại biết đâu mà kể.

Đức công bình buộc phải đền trả sự thiệt hại đã làm. Của cải đền trả còn dễ. Danh giá đền trả mới khó thay! Dầu khó, ta cũng phải liệu rút lời lại, và tìm dịp khen bù kẻ ta đã chê bai. Cách tốt hơn cả là giữ mình đừng nói xấu, vu cáo, cũng đừng a dua, trái lại hãy khéo léo lái qua câu chuyện khác; hoặc hơn nữa, cố gắng làm trạng sư của người vắng mặt, như Thánh Têrêsa đã làm xưa.

  1. Đức công bình và các nhân đức liên hệ

Đức thờ phượng

Đức thờ phượng cũng thuộc đức công bình, vì nó khiến ta trả món nợ tôn sùng cho Thiên Chúa. Nhưng nó không hẳn là công bình, vì ta không thể tôn sùng Thiên Chúa như Ngài đáng được. Ta sẽ bàn về: Khái niệm đức thờ phượng và cách thức thực hành đức ấy.

  1. Khái niệm đức thờ phượng

1.1. Bản chất

Theo thần học, thờ phượng là động tác tôn kính, nhằm mục đích chứng minh lòng thần phục đối với Đấng tạo thành. Động tác này gồm hai yếu tố: trí khôn và lòng muốn. Trí khôn phải nhận thức sự ưu tú trác tuyệt của Thiên Chúa. Lòng muốn phải nhận chịu quyền điều khiển tối cao của Ngài. Động tác ấy được thực hiện ngấm ngầm trong thâm tâm, hoặc biểu lộ ra ngoài, đó là thờ phượng.

Vậy, thờ phượng là nhân đức uốn lòng ta tôn kính Thiên Chúa, vì sự ưu tú trác tuyệt và quyền chủ tể tối cao của Ngài.

Đối tượng của đức thờ phượng là sự tôn kính Thiên Chúa, chứ không phải là chính Thiên Chúa như nhân đức đối thần.

Lý do của đức thờ phượng là sự cao sang trổi vượt và quyền hành tối cao của Chúa, khiến vạn vật phải phục tùng và qui hướng về Ngài.

Tác động thờ phượng có hai thứ: bề trong và bề ngoài.

1.1.1. Tác động bề trong là thờ lạy, đội ơn, tạ tội và xin ơn. Trong mấy việc ấy, quan trọng nhất là thờ lạy, nghĩa là sấp mình xuống trước mặt Chúa, để nhìn nhận Ngài là thần minh tuyệt đối, nguồn gốc mọi sự tốt lành, giữ quyền sinh tử vạn vật trong tay.

1.1.2. Tác động bề ngoài, dùng để phát biểu tác động bề trong. Quan trọng nhất là Thánh lễ Misa. Ngoài ra còn lời cầu nguyện công tư, lời khấn, lời thề hợp pháp cùng các việc siêu nhiên bên ngoài, làm vinh danh Thiên Chúa mà thánh Phêrô gọi là “của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” (1 Pr 2,5).

1.2. Sự cần thiết của đức thờ phượng

Vạn vật đều phải theo khả năng mà tạ ơn Thiên Chúa. Thánh Kinh rằng “các tầng trời chúc tụng vinh quang của Chúa” (Cv 18,2). Nhưng loài người có trí để suy, có lòng để mến, càng phải thờ Chúa cách hoàn toàn hơn nữa, chẳng những nhân danh riêng mình, lại còn nhân danh chung vạn vật.

Khốn thay! Loài người mải miết làm ăn, hưởng thụ, mấy ai lưu tâm đến phận sự ấy. Vì thế, Giáo Hội đã tuyển chọn một số người chuyên lo việc thờ phượng, thay cho nhân loại, đó là bậc tu sĩ và giáo sĩ. Danh từ tu sĩ theo Latinh có nghĩa là kẻ thờ phượng, vì đời họ được dệt nên bằng những việc thờ phượng liên tục. Và linh mục, với hai phương thần diệu: kinh thần vụ và lễ Misa, hằng ngợi khen Thiên Chúa cách vô cùng xứng đáng, như Chúa Giêsu đã làm xưa.

  1. Thực hành đức thờ phượng

Muốn thực hành đức thờ phượng, phải luyện lòng sốt sắng, nghĩa là hun đúc chí muốn làm các việc đạo đức cách hăng hái và quảng đại. Xét cho cùng, lòng sốt sắng chỉ là cách biểu lộ đức mến Chúa.

2.1. Đối với bậc khởi sinh

Hãy giữ chu đáo luật đọc kinh cầu nguyện, luật thánh hoá Chúa Nhật, Lễ Trọng. Hãy tránh phóng tâm, mơ mộng và du hí phàm trần, vì đó là nguồn gốc sinh ra sự chia trí. Hãy chuyên chăm đời sống nội tâm, nghĩa là năng nhớ mình ở trước nhan Chúa, và hồi tâm định trí mỗi khi cầu nguyện.

2.2. Đối với bậc tiến sinh

Hãy cố gắng kết hiệp với Chúa Giêsu trong tinh thần thờ phượng, vì trót đời, khi sống cũng như lúc chết, Ngài đã làm hiển danh Cha Ngài cách vô cùng hoàn hảo.

2.2.1. Tinh thần ấy gồm hai tâm tình: cung kính và mến yêu. Cung kính là tôn trọng và kính sợ Chúa, là Đấng tạo thành vạn vật, chủ tể càn khôn mà ta được sung sướng thần phục. Yêu mến là mến yêu Chúa Cha nhân lành, khả ái, đầy lòng thương ta. Cũng phải kể vào đây tâm tình thán phục, biết ơn và ca ngợi nữa.

2.2.2. Gương mẫu đức thờ phượng là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Từ khi giáng trần đến khi tắt thở, Ngài hằng tán tụng khong khen Đức Chúa Cha, xưng ra Thiên Chúa là tất cả, loài người là hư không. Công việc ấy, ngày nay, Ngài còn đang tiếp tục trong bí tích Thánh Thể cũng như trong linh hồn ta, mà Ngài thông cho tâm tình thờ phượng. Vậy ta hãy năng kết hợp cùng Thánh Tâm để thờ phượng Thiên Chúa cho xứng đáng.

2.2.3. Chúa Giêsu đã thờ phượng Cha Ngài bằng cách hiến tế trên thánh giá. Ta cũng phải hiến tế bản thân, biến đời ta thành những chuỗi dài những lễ hy sinh dâng lên trước toà Chúa. Như thế là ta đã thờ phượng Chúa cách liên lỉ vậy.

  1. Đức công bình và các nhân đức liên hệ

Đức phục tùng

Đức phục tùng cũng thuộc đức công bình, vì nó giúp ta trả món nợ tôn kính và vâng lời đối với bề trên. Trong giai đoạn này sẽ bàn về: căn bản, sự cao quý và cách thực hành đức phục tùng.

  1. Căn bản đức phục tùng

Phục tùng là nhân đức khiến ta bắt ý mình theo ý bề trên, vì lẽ ngài là đại diện Thiên Chúa.

Đối với Kitô giáo, phục tùng bề trên không phải là vâng lời một con người, song là vâng lời Thiên Chúa xuyên qua vị đại diện chính thức của Ngài. Đó là căn bản đức phục tùng Công giáo.

1.1. Đối với Thiên Chúa

Thiên Chúa là chủ tể tối cao, mọi loài phải tùng phục tuyệt đối, là thụ tạo, loài người phải vâng phục Thiên Chúa. Là con Chúa, loài người càng phải lấy lòng hiếu thảo mà vâng lời Cha. Đối với Chúa Giêsu, loài người là thần dân đã được Ngài giải phóng bằng giá rất cao, nên cũng phải tuân theo các luật Ngài ban bố.

1.2. Đối với đại diện Thiên Chúa

Phục tùng Chúa, ta cũng phải phục tùng những đại diện chính thức của Ngài. Loài người không thể sống lẻ loi, Chúa đã muốn họ hợp thành xã hội. Xã hội nào cũng phải có cấp trên để lãnh đạo, cấp dưới để vâng theo, nếu không sẽ hỗn loạn và không mưu được công ích. Quyền hành cấp trên là do Thiên Chúa “chẳng có quyền nào chẳng bởi Chúa. Vâng phục bề trên là vâng phục Chúa, chống cưỡng bề trên là chuốc lấy án phạt đời đời” (Rm 13,1-2). Còn bổn phận người trên là thi hành quyền bính để mưu vinh danh Chúa và ích chung cho xã hội. Nếu lạm dụng sẽ có lỗi trước mặt Chúa và thượng cấp. Bổn phận người dưới là vâng lời các vị đại diện Chúa, như vâng lời Ngài vậy: “Ai nghe các con là nghe Ta; ai khinh các con là khinh Ta.” (Lc 10,16).

1.2.1. Bề trên chính thức: Bề trên chính thức là ai? Thưa, đó là những người Chúa đã đặt lên chỉ huy các xã hội.

Trong gia đình là cha mẹ. Trong quốc gia là Quốc trưởng và các cộng sự viên. Trong Giáo Hội là Đức Giáo hoàng đối với thế giới Công giáo: vị giám mục đối với giáo phận, cha sở và cha phó đối với giáo xứ, như giáo luật đã quy định. Sau hết, trong tu viện, bề trên chính thức là những người được đặt lên theo hiến pháp, mà các tu sĩ đều phải tình nguyện vâng lời, trong phạm vi tu luật.

1.2.2. Giới hạn quyền bính: Quyền hành bề trên là quyền có giới hạn; không phải muốn sao cũng được. Trước hết, không được truyền điều gì nghịch với luật Chúa và Hội Thánh; và nếu có truyền thì bề dưới cũng không được thi hành, như lời Thánh Phêrô dạy: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta.” (Cv 5,25). Cũng không được truyền điều gì anh hùng, hay khó khăn quá không thể làm được, vì “chẳng buộc ai làm điều gì bất khả”. Nhưng khi hồ nghi, thì phải cho bề trên là hữu lý. Sau nữa, bề trên không được truyền điều gì vượt quá quyền hạn. Thí dụ bề trên dòng truyền việc gì ngoài giới hạn Hiến pháp và Tu luật đã chỉ định.

  1. Sự cao quý của đức phục tùng

2.1. Đức phục tùng kết hiệp ta với Chúa

Theo Thánh Tôma, trong các nhân đức luân lý, sau đức thờ phượng, chẳng có đức nào cao quý bằng đức phục tùng, vì nó kết hiệp ta với Chúa hơn mọi nhân đức khác.

Quả thế, đức phục tùng khiến ta biết bỏ ý mình theo ý Chúa, hoá nên đồng tâm nhất trí với Ngài. Hợp nhất về ý chí là hiệp nhất hoàn toàn; vì ý chí là chúa các tài năng, nó đã phục, thì các tài năng đều phục hết. Hy sinh về ý chí là hy sinh lớn nhất; vì ta trọng tự do hơn tiền tài, khoái lạc. Bởi thế Thánh Kinh dạy: rằng “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 V 15,29).

2.2. Đức phục tùng là mẹ sinh ra và giữ gìn các nhân đức

Đức phục tùng, trước hết, được đồng hoá với lòng mến Chúa, như lời Chúa dạy: “Nếu các con mến Cha, thì hãy giữ các giới răn.” Thánh Gioan phụ hoạ: “Ai tuân giữ giới răn thì thực là kẻ có lòng mến Chúa tinh ròng.” (1 Ga 2,5). Như thế, đức phục tùng minh chứng và phát huy đức mến vậy. 

Ngoài ra, đức phục tùng cũng khiến ta thực hành các nhân đức khác, vì đó là điều Chúa muốn, như lời Thánh Tôma, “tất cả các nhân đức đều thuộc về đức Phục Tùng, vì lẽ Chúa đã truyền phải giữ”.

2.3. Đức phục tùng thánh hoá đời sống

Những việc tầm thường, nếu làm vì đức vâng lời, thì cũng là những việc lành, đẹp lòng Chúa, đáng thưởng đời sau. Trái lại, việc tốt mà trái ý bề trên, thì chẳng còn đáng kể là tốt nữa. Đức vâng lời vì như cây đũa thần, chỉ vào đâu là đó hoá ra vàng. Người vâng lời làm ít mà được nhiều, vì “kẻ phục tùng sẽ được nhiều thắng trận” (dụ/ng 21,28).

Thánh Phanxicô Salê viết: “Phục Tùng là cách tử đạo trọng nhất trong các cách tử đạo, vì chẳng chết một lúc, một lần, mà chết liên miên trót cả đời sống.” Đức phục tùng, như thế, giúp ta lập công trạng lớn lao. Vậy ta phải cố gắng thực hành cho được.

3.Thực hành đức phục tùng

3.1. Áp dụng: Linh hồn hãy tuỳ bậc nhân đức của mình mà thực hành sự vâng lời

3.1.1. Áp dụng cho khởi sinh: Khởi sinh hãy lưu tâm giữ lề luật Chúa và Giáo Hội cho chín chắn, cùng siêng năng thi hành mệnh lệnh bề trên cách tinh mật và siêu nhiên.

3.1.2. Áp dụng cho tiến sinh: Tiến sinh hãy năng suy gẫm gương phục tùng Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho đến khi chết. Khi vừa giáng trần, Ngài đã tự hiến để làm trọn thánh ý Đức Chúa Cha; trải 30 năm trường, Ngài đã vâng phục Thánh Giuse và Đức Mẹ; và sau cùng, Ngài đã vâng lời cho đến chết, lại chết trên thập giá! (Pl 2,8).

Thấm nhuần tinh thần cao cả ấy, tiến sinh hãy thành tâm vâng phục bề trên, cả trong những điều trái ý cực lòng, không than van năn nỉ.

3.1.3. Áp dụng cho đạt sinh: Đạt sinh hãy đi xa hơn, bắt trí phán đoán của mình tùng phục trí phán đoán của bề trên. Ở bậc tiến sinh, ta đã dâng ý chí cho Chúa; song ở bậc đạt sinh ta còn dâng nốt trí hiểu cho Ngài nữa. Nói khác đi ta sẽ có cùng một ý nghĩ như bề trên, và trở nên như cái gậy đặt trong tay người vậy. Tuy nhiên, không cấm ta trình bày quan điểm của mình với bề trên, nhưng phải làm cách cung kính, bình thản và sẵn sàng theo ý người.

3.2. Tư cách phục tùng

Phải vâng lời cách siêu nhiên, phổ cập và tinh tuyền.

3.2.1. Vâng lời cách siêu nhiên: Vâng lời siêu nhiên là nhìn nhận Chúa nơi bề trên; không gì giúp ta dễ vâng lời cho bằng. Thánh Phaolô nói: “Anh em hãy vâng lời chủ mình cách tôn trọng, kính nể và đơn sơ như vâng lời Chúa vậy.” Tài đức bề trên không phải là lý do cho tùng phục. Nết xấu của người không phải là lý do cho ta bất tuân. Hãy vâng phục, chỉ vì người là đại diện của Chúa.

3.2.2. Vâng lời cách phổ cập: Vâng lời phổ cập là vâng lời trong hết mọi sự chính đáng bề trên dạy, trừ điều nghịch luật Chúa thì không kể. Bề trên có thể lầm khi truyền khiến; nhưng ta không lầm lúc vâng lời.

3.2.3.Vâng lời cách tinh tuyền: Vâng lời tinh tuyền, là vâng lời mau lẹ, vui vẻ và tinh mật, làm đúng ý bề trên, không tìm đường giảm bớt. Thánh Anphongso viết: “Ma quỷ cũng vâng lời, nhưng cách miễn cưỡng. Tu sĩ nào vâng lời miễn cưỡng thì có lẽ gọi được là xấu hơn ma quỷ, vì nó không khấn vâng lời.”

  1. Phận sự bề trên

Phần trên, ta đã nói về phận sự của bề dưới. Nhưng không phải là bề trên không có phận sự. Phận sự của bề trên, thực ra, còn khó khăn và phức tạp hơn nhiều;  vì “vâng lời thì dễ hơn truyền khiến”. Bề dưới chỉ phải vâng phục một người; còn bề trên thì xem ra phải vâng phục tất cả, nghĩa là người phải khéo léo lựa ý mọi kẻ thuộc quyền.

4.1. Đối với Thiên Chúa: Người lãnh đạo phải nhớ quyền mình có là quyền thừa uỷ của Chúa, nên phải làm theo ý Ngài, và sẽ phải trả lẽ về mọi hành động của mình, như lời Thánh Kinh: “Kẻ quyền hành sẽ phải hành hình dữ dội.” (Khôn ngoan 6,7). Vì thế, kẻ làm bề trên phải sợ hơn là mừng.

4.2. Đối với cộng đồng: Người lãnh đạo được đặt lên để để lo ích chung cho cộng đồng, nghĩa là để phụng sự người ta, không phải để người ta phụng sự, như lời Chúa phán: “Kẻ lớn trong các con sẽ là đầy tớ các con.” (Mt 23,11).

4.3. Đối với bề dưới: Người lãnh đạo có phận sự làm ích cho người thuộc quyền. Người phải làm gương cho bề dưới, nhất là về sự phục tùng thượng cấp của mình. Người phải công bằng, tuỳ tài đức mà sử dụng, tuỳ nhu cầu mà giúp đỡ, không được thiên tư. Người cũng phải yêu thương bề dưới, cảm thông sự yếu đuối của họ, nâng đỡ nhiều hơn quở phạt. Vì thế, khi truyền khiến, hãy lưu tâm đến tâm lý và sức lực mỗi người.

Có như vậy, sự lãnh đạo cũng như sự phục tùng sẽ trở nên êm dịu, dễ dàng hơn, và sinh ích cho cả đôi bên.

  1. ĐỨC CAN ĐẢM
  2. Khái niệm về đức can đảm

1.1. Định nghĩa

Theo nguyên tự, can là gan, đảm là mật. Người Á Đông xưa quan niệm rằng: gan to mật lớn là dấu người mạnh mẽ, nhiều nghị lực. Người Âu châu lại cho rằng trái tim (coeur, courage) là nguồn gốc của sức mạnh.

Can đảm là nhân đức làm cho linh hồn được mạnh mẽ để làm những việc khó khăn, không sợ hãi cũng không táo bạo.

Đức can đảm phải giữ mực trung dung giữa sự sợ hãi và sự táo bạo. Nó khử trừ cảm xúc sợ sệt, kẻo kiệt lực không dám tiến lên. Nhưng cũng tiết chế cảm xúc táo bạo, kẻo sinh ra liều lĩnh mà thất bại.

1.2. Hành vi

Can đảm có hai hành vi chính yếu: làm việc khó và chịu sự khó.

1.2.1. Làm việc khó: Muốn thành công ở đời cũng như trong đường nhân đức, phải quyết định đảm đương việc khó, và kiên chí thực hành, gặp trở lực nào cũng gắng sức vượt qua, không chịu bỏ dở công việc.

Lòng ta đã quyết thì đành

Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây.

1.2.2. Chịu sự khó: theo Thánh Tôma, “chịu sự khó, khó hơn làm việc khó”. Mà ở đời, biết bao sự khó xác hồn, ta phải chịu. Người ta nói “tiến thoái lưỡng nan”, nhưng thoái thường khó hơn là tiến. Tiến là lúc ta có lực, thoái là lúc ta kém thế. Tiến là lúc ta còn trớn, thoái là lúc ta đã nản. Tiến lâu hay mau là tuỳ ở ta, thoái lâu mau là tuỳ ở địch. Vì thế, ta kết luận: “lửa thử vàng, gian nan thử đức. Có gió cả mới rõ cây cứng mềm”.

1.3. Phân loại

Có 4 đức liên hệ với can đảm. Hai đức giúp ta làm việc khó, đó là khoát đạt và quảng đại; hai đức giúp ta chịu sự khó, đó là nhẫn nhục và kiên nhẫn.

  1. Thực hành đức can đảm

2.1. Bậc khởi sinh: Khởi sinh hãy mạnh mẽ chống trả tính lo sợ, là tính thường ngăn trở chu toàn bổn phận, như sợ khó nhọc hiểm nghèo, sợ phê bình đàm tiếu, sợ mất lòng bạn hữu thân nhân. Hãy bảo mình: chỉ có một điều đáng sợ là tội, mọi sự khó sẽ qua, ân sủng và phúc trường sinh còn mãi; mặc cho miệng đời mai mỉa, thà mất lòng người ta mà được lòng Chúa, hơn mất lòng Chúa mà được lòng người ta.

2.2. Bậc tiến sinh: Tiến sinh hãy năng suy gẫm gương can đảm Chúa Giêsu đã làm, để di dưỡng tâm hồn và cố gắng thực hành như vậy. Ngay từ phút đầu tiên Ngài đã tình nguyện lãnh cuộc đời đau khổ, đau khổ như chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Ngài đã chiến đấu mạnh mẽ với kẻ thù của Thiên Chúa, mặc dù biết mình sẽ bị hại. Nhất là trong cuộc Tử Nạn, Ngài đã tỏ ra vô cùng anh dũng. Ngài đã nhìn thẳng và đi thẳng đến sự chết, bình tĩnh khi bị bắt cũng như khi bị hành hạ, sỉ nhục. Ngài đã quảng đại chữa lỗi và xin tha cho các lý hình. Gương mẫu xán lạn ấy đã hấp dẫn các thánh trên đường gian nan và tử đạo.

2.3. Bậc đạt sinh: Đạt sinh hãy vun trồng các ơn huệ Thánh Thần. Nhất là ơn hùng dũng, để biết làm và chịu mọi sự vì mến Chúa.

Tin ở sức mạnh của Chúa, cậy vào ơn phù giúp của Ngài và mến yêu sự tuyệt hảo của Ngài, đó là bí quyết đã tạo nên những người đại đảm.

Đức can đảm và các đức liên hệ 

  1. Đức khoát đạt

1.1. Khoát đạt là có chí lớn, muốn làm những điều vĩ đại, cho vinh danh Chúa và sinh ích cho đồng loại.

Khoát đạt không phải là ham hố. Ham hố có tính cách ích kỷ, nghĩa là tìm tiền tài danh vọng cho mình. Khoát đạt có tính cách vị tha, nghĩa là mưu ích cho người khác.

1.2. Người khoát đạt phải có tâm hồn cao thượng, lý tưởng lớn lao, chí khí dũng mãnh, mới trông thực hiện được hoài bão.

Khoát đạt bằng tư tưởng, tâm tình chưa đủ, phải khoát đạt bằng hành động và sự nghiệp nữa. Trong mỗi địa hạt, quân sự, chính trị, kinh tế, tôn giáo đều có những người xuất chúng, vì những hành động cao cả họ đã làm.

1.3. Đối nghịch với tính khoát đạt là tính nhút nhát. Nhút nhát là quá sợ thất bại, không dám hành động gì cả. Thực là uổng phí cuộc đời! Thà hành động mà sai lỗi một hai khi, còn hơn ngồi khoanh tay mà không lỗi.

Làm trai cho đáng nên trai,

Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên.

Của đời muôn sự của chung,

Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.

  1. Đức quảng đại

2.1. Đức quảng đại là tay sai của đức khoát đạt. Nếu khoát đạt là muốn làm việc lớn, thì quảng đại là sẵn sàng tiêu những món tiền lớn để thực hiện các việc lớn ấy, hầu làm vinh danh Chúa, hoặc mưu ích cho đồng loại.

Người giàu hãy rộng rãi giúp vào công cuộc của Chúa. Biết bao tổ chức Công giáo phải tê liệt vì thiếu tiền tài? Nhưng không phải giàu mới quảng đại. Bà goá Phúc Âm, chỉ bỏ hai đồng vào quỹ Đền thờ mà đã được Chúa Giêsu ca ngợi.

Thánh Vinh Sơn Phaolô, Thánh Giuse Cốt-tô-lanh-gô, với hai bàn tay trắng đã quảng đại hơn ai hết. Xem ra như Chúa ép lòng người ta phải đem tiền của đến cho những tâm hồn quảng đại, để họ thực hiện những công cuộc vĩ đại của Ngài.

2.2. Quảng đại cũng là lòng rộn rãi tha thứ, không chấp lỗi người ta, lại sẵn sàng làm ơn, khi có thể, cho đối thủ của mình. Đức này biết bao lần đã đổi thù thành bạn, và có sức bắt người đời thán phục. Đó là cách Đức Giáo hoàng Piô VII đối với Napoleon, Thánh nữ Maria Goretti đối với chàng trai đâm chết mình.

  1. Đức nhẫn nhục

3.1. Đức nhẫn nhục giúp ta chịu đau khổ vì yêu mến Chúa: nhẫn nhục là nhân đức làm cho ta biết kết hiệp cùng Chúa Giêsu mà bình thản chịu đau khổ xác hồn, vì lòng mến Chúa.

Đời là biển khổ, là sủng nước mắt, hữu thân hữu khổ là lẽ tất nhiên, không sao khỏi được. Bất nhẫn, than trách, ngã lòng, nguyền rủa đều là vô ích. Chỉ còn một cách là chịu đựng thế nào cho hữu ích, êm đềm. Đó là công dụng của đức nhẫn nhục. Việc càng lớn, sự khó càng nhiều, nên muốn làm việc lớn, phải sẵn sàng chịu khó.

Căn bản đức nhẫn nhục của Kitô giáo là thuận theo ý Chúa trong các thập giá Ngài gửi đến, theo gương Chúa Giêsu còn lưu lại sáng ngời.

3.2. Thực hành đức nhẫn nhục theo 3 bậc đường nhân đức.

3.2.1. Bậc khởi sinh: Khởi sinh hãy lấy đức tin mà lãnh nhận các đau khổ như bơi Chúa gửi đến, trấn áp cảm xúc tự nhiên, không phàn nàn, không bất nhẫn, vì hy vọng phần thưởng trên trời Chúa đã dành cho. Đồng thời, biến đau khổ thành phương dược thanh tẩy tâm hồn, đền bù tội lỗi và trừ khử tính mê.

3.2.2. Bậc tiến sinh: Tiến sinh hãy hăng hái và cương quyết đi thẳng vào đường thánh giá Chúa đã đi, năng suy gẫm về gương nhịn nhục của Ngài, nhất là trong cuộc Tử Nạn, và gắng sức noi theo, vì biết rằng “có đồng nhục mới đồng vinh với Ngài” (Rm 8,17). “Phúc cho kẻ khóc lóc, kẻ bị bách hại vì công lý” (Mt 5,5-10).

3.2.3. Bậc đạt sinh: Đạt sinh hãy ước ao và yêu mến đau khổ, vì nó làm vinh danh Chúa và thánh hoá các linh hồn. Bậc này hợp cho tu sĩ linh mục và tông đồ. Tuy nhiên, không nên theo cơn sốt sắng nhất thời, mà xin Chúa gửi đau khổ, thử thách đến, kẻo hợm mình đã vậy, lại có khi nguy hiểm nữa. Nếu thấy ý định đó thúc bách lâu ngày, hãy trình bày với cha linh hướng.

  1. Đức kiên nhẫn

4.1. Đức kiên nhẫn giúp ta chiến đấu tới cùng: kiên nhẫn là cố gắng chiến đấu và chịu đựng cho đến cùng không bỏ dở công việc vì mỏi mệt, nản lòng hay nhu nhược.

Thời gian là yếu tố cần thiết cho sự thành công. Người xưa đã nói: nước chảy đá mòn, kiến tha lâu cũng đầy tổ.

Ở đời chẳng việc gì khó

Người lập chí phải nên kiên.

Chẳng có nhân đức nào vững, khi chưa được luyện lọc qua lò lửa của thời gian. Thời gian xây dựng cũng nhiều. Thời gian phá hoại cũng lắm. Theo tính tự nhiên loài người, cố gắng một ngày thì dễ, cố gắng hết năm này tháng khác thì khó. Cung giương mãi cũng chùng, người gắng mãi thấy mỏi mệt, mỏi mệt thì sinh chán nản, chán nản thì sinh ươn hèn, ươn hèn thì bỏ việc.

4.2. Đức kiên nhẫn giúp ta bền vững đến cùng: muốn kiên nhẫn, phải năng cầu xin ơn ấy với Chúa và Đức Mẹ. Chỉ có Chúa giúp ta được bền đỗ đến cùng.

Đồng thời, ta cũng phải tâm niệm: sự khó mau qua, thiên đàng còn mãi, và ta sẽ được đời đời nghỉ ngơi hoan lạc, bù lại những gian lao phiền muộn ở đời. Rồi ta lại hăng hái tiếp tục công việc dầu thấy ít thành quả cũng không sờn. Chúa không đòi sự thành công, mà đòi sức cố gắng.

Tuy nhiên, kiên nhẫn không loại trừ sự nghỉ ngơi chính đáng, phải biết nương nhẹ con ngựa của mình mới trông đi xa được. 

(Theo Linh mục Châu Diên, Tu đức học, tr. 326-332, viết theo quyển Théologie ascétique et mystique của cha Tanquerey)

 

Saturday, October 1, 2022

GIÁO TRÌNH PHỤNG VỤ

  

THÁNH LỄ & CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ

PHẦN I

GIÁO TRÌNH CƠ BẢN VỀ PHỤNG VỤ[1]

Mục 1 : PHỤNG VỤ KITÔ GIÁO 

“Danh từ ‘Phụng Vụ ’ theo nguồn gốc, có nghĩa là ‘việc công khai’, ‘việc do dân và vì dân’. Theo truyền thống Kitô giáo, danh từ này muốn nói: ‘Dân Thiên Chúa tham dự vào công trình của Thiên Chúa’. Qua Phụng vụ, Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc và Thượng Tế, tiếp tục công trình cứu chuộc trong Hội Thánh, với Hội Thánh và qua Hội Thánh”    (GLHTCG 1069)

 

Phụng vụ không những để chỉ nghi lễ tôn thờ Thiên Chúa, mà còn là việc rao giảng Tin Mừng và thực thi bác ái. Vì thế, Phụng vụ có hai mục tiêu rõ rệt : vừa phục vụ Thiên Chúa, vừa phục vụ con người.

 

I. DANH TỪ PHỤNG VỤ

Danh từ Phụng vụ có nguồn gốc tiếng Hy Lap : Leiturgia, được ghép bởi hai chữ : Laos nghĩa là dân chúng và Ergon là công việc. Theo nghĩa đó, phụng vụ chỉ công việc của dân chúng có tính công ích. Vào đầu thế kỷ II trước Chúa Kitô, danh từ Leiturgia mang thêm một ý nghĩa mới để ám chỉ các việc thờ phượng công cộng, và được người Do Thái sử dụng trong bản dịch Thánh Kinh Hy Lạp (bản LXX) để ám chỉ các việc phượng tự của các tư tế trong đền thờ.

Các sách Tân Ước cũng sử dụng từ Leiturgia, không những để chỉ nghi lễ phụng thờ Thiên Chúa (Cv 13,2; Lc 1,23) mà còn ám chỉ việc rao giảng Tin Mừng (Rm 15,16); chỉ việc bác ái (2Cr 9,12).

Sau thời các tông đồ, danh từ Leiturgia vừa chỉ sự phục vụ Thiên Chúa, vừa chỉ sự phục vụ cộng đoàn, hoặc có khi chỉ đích danh việc cử hành Thánh Thể. Mãi sau này, Giáo Hội Công Giáo chính thức dùng từ Liturgia trong bộ Giáo Luật 1917 để diễn tả thẩm quyền của Hội Thánh trong việc cử hành phụng vụ và chức năng tư tế của các Kitô hữu. Sách Giáo lý chung (GLHTCG 1069) cũng dùng danh từ này để chỉ công trình cứu chuộc của Chúa Kitô được tiếp tục trong Hội Thánh.

 

II. PHỤNG VỤ LÀ GÌ ?

Phụng vụ là một thực tại sinh động, phong phú và duy nhất nên người ta chỉ có thể định nghĩa Phụng vụ dựa theo bản chất và các đặc tính của Phụng vụ. Phụng vụ không phải là chỉ là những dấu chỉ khả giác hay một lễ nghi lộng lẫy và thần bí. Phụng vụ cũng không phải là một tổng hợp những luật chữ đỏ chỉ dẫn cách thực hành. Công đồng Vatican II xác định: “Phụng vụ là việc thi hành chức năng tư tế của Chúa Kitô và Giáo Hội”(PV 7).

Dựa vào một vài yếu tố chính yếu của cử hành Phụng vụ, ta có thể nói: Phụng Vụ là việc thờ phượng chính thức của Hội Thánh được thừa tác viên hợp pháp cử hành đúng nghi thức và cử hành nhân danh toàn thể Hội Thánh.

Như vậy một cử hành có tính Phụng Vụ đòi phải có ba yếu tố :

– Phải là nghi lễ chính thức của Hội Thánh được ấn định trong sách Phụng Vụ, chứ không phải là lời nguyện tự phát theo sáng kiến cá nhân.

– Phải do một thừa tác viên hợp pháp cử hành, nghĩa là những người được Hội Thánh cắt đặt và ban quyền chủ sự, và cử hành đúng nghi thức của Hội Thánh đã ấn định.

– Phải cử hành nhân danh toàn thể Hội Thánh vì Phụng Vụ không bao giờ có tính cá nhân cho dù thừa tác viên cử hành một mình.

 

III. PHỤNG VỤ VÀ VIỆC ĐẠO ĐỨC

Phụng vụ là các lời kinh hay cử hành chính thức của Hội Thánh nhằm biểu lộ đức tin công khai vào các thực tại thánh (Thánh lễ, 7 Bí tích, các giờ Kinh Phụng vụ, các Phụ tích), còn các việc đạo đức cũng nhằm diễn tả đức tin của dân Chúa bằng những hình thức khác nhau tùy theo địa phương. ‘Lòng đạo đức bình dân’ chỉ những biểu hiện phượng tự mang tính cá nhân hay cộng đồng, trong khuôn khổ đức tin Kitô giáo, tuy không theo thể thức của phụng vụ, nhưng đã vay mượn những sắc thái đặc thù thuộc tinh hoa của một dân tộc hay một địa phương.

Đặc trưng của lòng đạo đức bình dân là lối diễn tả đa dạng và phong phú của những cử điệu và biểu tượng. Ví dụ: tập qúan hôn hay vuốt tay vào ảnh tượng thánh, thánh tích, đi hành hương chân trần, rước kiệu, dâng nến, dâng hoa, dâng bảng tạ ơn, đeo ảnh… Những biểu hiện ấy được truyền lại từ đời nọ sang đời kia đều là những cách thức tiếp cận đơn giản nhằm biểu lộ ra bên ngòai những tình cảm chân thực trong tâm hồn tín hữu. Thiếu chiều kích nội tâm này, những cử chỉ biểu trưng kia có nguy cơ rỗng tuếch hoặc biến thành dị đoan.

Mặc dù Hội Thánh vẫn cổ võ lòng đạo đức bình dân, song các Kitô hữu cũng cần hiểu rõ :

“Tự bản chất phụng vụ vượt xa các việc đạo đức; việc đạo đức chỉ nối dài chứ không thay thế phụng vụ; các việc đạo đức phải phát xuất từ phụng vụ và dẫn đưa người tín hữu đến tham dự tích cực vào phụng vụ, chứ không được phép làm lu mờ các cử hành phụng vụ” (GLHTCG 1675).

 

IV. NỘI DUNG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ

Mầu nhiệm Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh là tột đỉnh của mầu nhiệm cứu độ, và là trung tâm của mọi cử hành phụng vụ Kitô giáo. “Trong Phụng vụ, điều chính yếu Hội Thánh cử hành là mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Đức Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta. Trong Phụng vụ, Hội Thánh loan truyền và cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô, để các tín hữu làm chứng mầu nhiệm này trên toàn thế giới” (GLHTCG 1067).

Vì thế, phụng vụ còn được gọi là việc Hội Thánh, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô (TN & PS) để tôn vinh Thiên Chúa và kêu cầu ơn cứu độ.

Cử hành ở đây được hiểu vừa là tưởng niệm, vừa là hiện tại hoá mầu nhiệm cứu độ. Tưởng niệm để nhắc nhớ những gì Chúa đã làm cho con người; và hiện tại hoá không có nghĩa là tái diễn, lập lại, nhưng là nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Hội Thánh làm cho việc Chúa chết và sống lại không trôi vào dĩ vãng song đi vào đời sống chúng ta hôm nay một cách mầu nhiệm.

Tại sao vậy ? Đức Giêsu là con người nên bất cứ hành động nào của Ngài đã xảy ra đều đi vào quá khứ, nhưng Đức Giêsu còn là Thiên Chúa nên hành vi của Ngài mãi mãi là hiện tại, như lời sách Khải Huyền:“Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn năng” (Kh 1,8). Hai bản tính này tuy khác nhau nhưng không thể tách rời nơi Đức Giêsu Kitô nên cử hành mầu nhiệm Chúa chết và sống lại là tưởng niệm một sự việc đã xảy ra trong thời gian của quá khứ, nhưng sự việc này vẫn tiếp diễn trong thời gian của ngày hôm nay dưới tác động của Chúa Thánh Thần khi Hội Thánh cử hành Phụng vụ. Vì thế mà Hội Thánh, theo Lời Chúa dạy, vẫn tiếp tục lập lại việc cử hành này cho tới khi Chúa lại đến trong vinh quang :

“Phụng vụ Kitô giáo không chỉ gợi nhớ, nhưng còn làm cho những biến cố cứu độ hiện diện và tác động trong hiện tại. Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô được cử hành chứ không phải được lập lại. Chúng ta chỉ lập lại việc cử hành, và mỗi lần như thế, Chúa Thánh Thần hiện tại hoá mầu nhiệm độc nhất này” (GLHTCG 1104)

 

V. CHỦ ĐÍCH PHỤNG VỤ

Chúa Kitô khi hiến thân chịu chết là Ngài muốn tôn vinh Thiên Chúa là Cha và cầu mong Thiên Chúa xá tội để con người được cứu độ. Đó là sứ vụ của Con Thiên Chúa khi xuống làm người, và đó cũng là công việc của Hội Thánh khi tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô. Cả hai chiều kích này liên kết và gắn bó với nhau vì phụng vụ không đứng biệt lập và dửng dưng với các thực tại nhân sinh.

1) Tôn thờ Thiên Chúa là thái độ của thụ tạo được cứu độ được biểu lộ qua những động tác sau đây :

– Ca tụng và tạ ơn vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử cứu độ.

– Tuyên xưng đức tin tông truyền vào một Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần.

– Chiêm ngắm các công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa, vừa là tưởng niệm, vừa làm sống lại tác động của Thiên Chúa trong đời sống mỗi người chúng ta.

– Thờ lạy biểu hiện sự lệ thuộc và kính trọng Đấng Tạo dựng và Cứu độ.

– Cậy trông vào tình tha thứ vô bờ bến của Thiên Chúa.

– Yêu mến vì cảm nhận được tình thương trao ban của Thiên Chúa.

2) Cầu mong ơn cứu độ được biểu lộ qua những động tác sau đây :

– Nhìn nhận thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình, và chỉ biết cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa mà hành động.

– Sám hối là thái độ khiêm nhường, đặt mình trước mặt Thiên Chúa. Trong phụng vụ, sám hối thường là cử chỉ đi trước để chuẩn bị cho các cử hành thánh sắp diễn ra.

– Cầu xin là cầu mong Thiên Chúa trợ giúp cho những nhu cầu tâm linh và vật chất trong đời sống con người. Tất cả những gì là cần thiết cho con người và cho Nước Chúa đều là đối tượng của mọi lời cầu xin.

– Hy vọng là hướng đến viễn tượng cánh chung là cùng đích của đời sống con người và thế giới.

 

VI. BẢN CHẤT CỦA PHỤNG VỤ

Công đồng Vatican II xác định bản chất của phụng vụ như sau:

“Phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô; trong đó, công cuộc thánh hoá con người được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ, và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là gồm cả Đầu cùng các chi thể của Người. Do đó, vì là công việc của Chúa Kitô tư tế và Thân Thể của Người là Hội Thánh nên mọi cử hành Phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và không có một hành vi nào khác của Hội Thánh có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp (PV 7).

Như thế, bản chất của phụng vụ gồm những yếu tố căn bản này:

1) Phụng vụ là một việc linh thánh, do chính Chúa Kitô thực hiện để tôn vinh Thiên Chúa. Chúa Kitô họat động trong phụng vụ với tư cách là Đầu của Thân Thể để ‘chính nhờ Người, với Người, và trong Người’mà chúng ta được thánh hóa và chúc lành.

2) Phụng vụ gồm những dấu chỉ khả giác, hữu hình và hữu hiệu, để thông ban ân sủng cho con người.

3) Phụng vụ là công việc của tất cả Nhiệm Thể Chúa Kitô, gồm Đầu và các chi thể. Trong các cử hành phụng vụ, Chúa Kitô luôn luôn hiện diện để chủ tọa qua các thừa tác viên có chức thánh và những người được Giáo Hội ủy nhiệm. Các động tác phụng vụ không phải là động tác riêng của một cá nhân hay một nhóm người nào, nhưng là động tác của toàn thể Hội Thánh. Nói đúng hơn là động tác của chính Chúa Kitô, Thủ lãnh của Giáo Hội, và của tất cả mọi chi thể trong Nhiệm Thể của Ngài. Do đó, trong phụng vụ mỗi người có công việc riêng, phận sự riêng, song tất cả đều phục vụ ích lợi chung của Hội Thánh.

4) Phụng vụ là sứ mạng của Chúa Thánh Thần nhằm chuẩn bị cho cộng đòan tín hữu gặp gỡ Chúa Kitô; gợi nhớ và biểu lộ Chúa Kitô cho cộng đòan; và chính Chúa Thánh Thần làm cho công trình cứu độ của Chúa Kitô hiện diện và tác động trong hiện tại, đồng thời làm cho ơn hiệp thông trong Hội Thánh sinh hoa kết trái.

 Hội Thánh được xây dựng trên nền tảng các tông đồ. Các tông đồ được Chúa Kitô ủy thác cho sứ mạng thánh hóa dân Chúa khi các ngài nhận lãnh Chúa Thánh Thần, và cũng do quyền năng Thánh Thần mà các ngài chuyển giao quyền thánh hóa ấy cho những người kế vị. Vì thế, chỉ có phụng vụ Kitô giáo đúng nghĩa khi việc phụng vụ ấy được cử hành dưới quyền điều khiển của vị giám mục, người kế vị các tông đồ. Khi vị giám mục chủ tọa cộng đòan phụng vụ, ngài hành động trong tư cách là đầu, có các cộng sự viên bao quanh như là linh mục, phó tế, các thừa tác viên và dân Chúa tạo nên một cộng đòan hiệp nhất (PV 41); hoặc có thể nói một cách mạnh mẽ rằng người ta không thể chủ tọa phụng vụ cách hợp pháp khi bị giám mục ngăn cấm.

Công đồng Vatican II mời gọi các vị mục tử không những phải chú tâm tuân giữ các luật lệ trong các họat động phụng vụ để cử hành thành sự và hợp pháp, mà còn phải làm cho các tín hữu tham dự phụng vụ cách ý thức, linh động và tích cực (PV 11).

 

TÓM LƯỢC :

1* H. Phụng vụ là gì ?

-T. Phụng vụ là việc Hội Thánh, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô để tôn vinh Thiên Chúa và kêu cầu ơn cứu độ.

2* H. Đâu là những yếu tố chính cấu tạo nên phụng vụ?

-T. Có ba yếu tố chính yếu sau đây làm nên phụng vụ : một là sách nghi lễ chính thức của Hội Thánh; hai là phải do một thừa tác viên hợp pháp của Hội Thánh cử hành; ba là phải cử hành đúng nghi thức và nhân danh toàn thể Hội Thánh.

3* H. Cử hành phụng vụ có nghĩa như thế nào ?

-T. Cử hành phụng vụ vừa là tưởng niệm, vừa là hiện tại hóa mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô. Tưởng niệm để nhắc nhớ những gì Chúa đã làm cho con người; và hiện tại hoákhông có nghĩa là tái diễn, nhưng là nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Hội Thánh làm cho việc Chúa chết và sống lại không trôi vào dĩ vãng, song đi vào đời sống chúng ta hôm nay cách mầu nhiệm, vì hai bản tính nơi Đức Giêsu không bao giờ tách biệt.

4* H. Bản chất của phụng vụ là gì ?

-T. Bản chất của phụng vụ bao gồm những yếu tố sau đây :

. Phụng vụ là một việc linh thánh, do chính Chúa Kitô thực hiện qua thừa tác viên của Hội Thánh.

. Phụng vụ gồm những dấu chỉ khả giác, hữu hình và hữu hiệu, để thông chuyển ơn thiêng cho con người.

. Phụng vụ là công việc của tất cả Nhiệm Thể Chúa Kitô gồm Đầu và các chi thể.

. Phụng vụ là sứ mạng của Chúa Thánh Thần nhằm chuẩn bị cộng đòan tín hữu gặp gỡ Chúa Kitô, và làm cho công trình cứu độ tác động trong hiện tại.

5* H. Việc phụng vụ và việc đạo đức có tương quan gì với nhau?

T. Giữa phụng vụ và việc đạo đức có mối liên hệ hỗ tương. Phụng vụ vượt xa các việc đạo đức, còn các việc đạo đức phải phát xuất từ phụng vụ và dẫn đưa người tín hữu đến với phụng vụ; và không được để lòng đạo đức bình dân biến chất hoặc lấn át các cử hành phụng vụ.

 

 

 

Mục 2 : LỊCH SỬ PHỤNG VỤ 

 

“Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).

 

Phụng vụ của Hội Thánh như chúng ta thấy hiện nay đã không hình thành một sớm một chiều, nhưng đã tiến triển từng bước theo thời gian. Một mặt vì phụng vụ là tác động thần linh nên có những yếu tố nền tảng không thể thay đổi; mặt khác vì tính nhân trần nên phụng vụ không phải là một thực tại bất động, khô cứng, nhưng cần phải thích nghi theo từng môi trường và văn hóa địa phương. Đó chính là lý do tạo nên những truyền thống phụng vụ, hay còn gọi là gia đình phụng vụ trong dòng lịch sử.

 

I. PHỤNG VỤ VÀ TRUYỀN THỐNG

Truyền thống là cách thức bảo tồn và chuyển tải di sản tinh thần của thế hệ đi truớc sang cho các thế hệ sau. Hiểu như vậy, Truyền thống Kitô giáo vừa bảo đảm nội dung đức tin, vừa là cách thức truyền tải đức tin một cách chắc chắn từ các tông đồ đến chúng ta ngày nay. Chính đức tin chi phối việc cử hành phụng vụ, như câu châm ngôn ngàn đời của Giáo Hội: “Luật cầu nguyện là luật đức tin” (Lex orandi lex credendi). Ngay từ đầu, Giáo Hội đã cử hành phụng vụ đồng thời với việc rao giảng Tin Mừng về mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô (Cv 2,1-47) . Tuy nhiên, việc cử hành phụng vụ có trước và tạo nên Truyền Thống, còn bản văn phụng vụ đến sau dựa vào Ký Ức cộng đòan.

Bận tâm của Hội Thánh ban đầu không phải là những bản văn thần học hay phụng vụ, nhưng là công cuộc rao giảng Tin Mừng dựa vào uy thế của các tông đồ và những người kế vị. Vì thế không thể quan niệm một cử hành phụng vụ không có Hội Thánh hay tách rời khỏi các tông đồ và những người kế vị. Chính trong sự liên tục của Truyền thống này mà đức tin Kitô giáo được gìn giữ vẹn tuyền và trở nên sống động qua mọi thời nhờ các cử hành Phụng vụ.

 

II. BẢN VĂN PHỤNG VỤ

Ngoài những dấu tích khảo cổ về các bức bích họa trên tường, các di tích thánh còn để lại những dấu vết sinh hoạt phụng vụ của Hội Thánh thời tiên khởi, chúng ta còn thấy xuất hiện các nguồn tài liệu viết.

Trước hết phải kể đến cuốn sách Kinh Thánh.Hội Thánh kế thừa nhiều dấu chỉ và nghi lễ mà sách Cựu Ước còn ghi lại; và sách Tân Ước là những bản tường trình chính xác và trung thực về đời sống phụng vụ của Hội Thánh ban đầu. Thứ đến là các nguồn tài liệu khác mang giá trị lịch sử phụng vụ, quy định các thể thức phải giữ khi cử hành phụng vụ như sách Didaché, sách hộ giáo của thánh Justinô, sách truyền thống tông đồ của thánh Hypôlytô; hoặc trình bày và giải thích các cử hành phụng vụ như các bài giảng và giáo lý của Tertulianô, Xyrilô thành Giêrusalem, Ambrôsiô, Augustinô

 

 

III. BƯỚC KHỞI ĐẦU CỦA PHỤNG VỤ KITÔ GIÁO

Các Kitô hữu tiên khởi thường xuyên lui tới đền thờ cầu nguyện và chu toàn các việc phượng tự như những người Do Thái khác, và chỉ ngừng lên đền thờ khi bị người Do Thái loại trừ ra khỏi đời sống phượng tự của họ. Ngòai ra các Kitô hữu còn hội họp riêng tại tư gia để cầu nguyện, lắng nghe các tông đồ giảng dạy và cử hành nghi lễ bẻ bánh; đặc biệt vào ngày thứ nhất trong tuần, ngày Đức Kitô phục sinh và gọi là ‘ngày của Chúa’(Chủ Nhật).

 

IV. PHỤNG VỤ CỦA HỘI THÁNH TRONG BỐN THẾ KỶ ĐẦU

Phụng vụ của Hội Thánh trong những thế kỷ đầu chưa có những quy định bắt buộc vì mỗi Hội Thánh địa phương còn gắn bó với truyền thống các tông đồ theo những nét độc đáo riêng. Phụng vụ thời này được coi là giai đoạn ứng khẩu, nghĩa là các giám mục chủ tọa các buổi cử hành phụng vụ có quyền sáng tác các bản văn và lời kinh phụng vụ, vì vào thời điểm này chưa có các bản văn chung. Dù là ứng khẩu nhưng các giám mục vẫn theo những truyền thống phụng vụ sẵn có trong Hội Thánh.Chúng ta có thể đọc thấy những điều đó trong các nguồn tài liệu sau đây :

 

-Sách Didaché (cuối thế kỷ I)

“Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha vì cội nho thánh thiện của Đavít, tôi tớ Cha, mà Cha đã mặc khải cho chúng con qua Đức Giêsu, Tôi Tớ Cha, được vinh hiển đến muôn đời. Amen. (Didaché 9 : lời tạ ơn trên chén)

-Sách Hộ giáo của thánh Justinô (khỏang năm 150).

-Sách Truyền thống các tông đồ của thánh Hypôlytô (vào đầu thế kỷ III).

-Sách Giáo lý của thánh Ambrôsiô (thế kỷ IV)…

Nói chung các cử hành phụng vụ trong bốn thế kỷ đầu của Hội Thánh không đồng nhất trong chi tiết nhưng luôn bảo đảm tính tông truyền và sự trong sáng của đức tin Kitô giáo. Sau khi Hội Thánh Công Giáo được hợp thức hóa trong toàn đế quốc Rôma, và có các Công đồng chung để minh định đức tin Kitô giáo đã tạo nên các gia đình phụng vụ.

V. CÁC GIA ĐÌNH PHỤNG VỤ

Vào thế kỷ V, Hội Thánh có 5 tòa giám mục quan trọng (Tòa Thượng Phụ) là Rôma, Constantinople, Alexandrie, Antiokia, và Giêrusalem. Chính những dẫn giải thần học, cộng thêm những ảnh hưởng văn hóa chính trị đã tạo nên sự độc lập cho các Tòa thượng phụ với những nghi lễ riêng, gọi là gia đình phụng vụ.

Các gia đình phụng vụ không phải một sớm một chiều hình thành, song là một quá trình lâu dài, hoặc là kết quả của sự hội tụ nhiều gia đình phụng vụ khác nhau. Ngày nay,có những Giáo Hội Đông Phương hiệp thông hoàn toàn với Hội Thánh Công Giáo, song lại theo một gia đình phụng vụ có nguồn gốc Chính Thống giáo.

1) Nhóm Alexandria :

Có hai nghi lễ chịu ảnh hưởng của gia đình phụng vụ Alexandria : nghi lễ Cốp (Copte) và nghi lễ Êtiôpi. Đặc tính của hai nghi lễ này là dùng ngôn ngữ Hy Lạp và Copte (Ai Cập cổ), và chủ trương thần học độc tính thuyết, nghĩa là Chúa Giêsu chỉ có một bản tính duy nhất. Ngày nay, những Kitô hữu hiệp thông với Hội Thánh Rôma vẫn cử hành theo nghi lễ Copte hay Ethiopie bằng tiếng Ả Rập.

2) Nhóm Antiôkia (Syrie):

Antiôkia là một tỉnh lớn của đế quốc Rôma, và một trong những nơi đầu tiên đón nhận Tin Mừng (Cv 11,26) nên Hội Thánh tại đây cũng đã có những cử hành phụng vụ riêng biệt, rồi chia thành nhiều nghi lễ khác nhau: nghi lễ Antiôkia, Cađêen, Byzantin, Armêni …

 

VI. NGHI LỄ TÂY PHƯƠNG

Phụng vụ Tây Phương từ thế kỷ IV đã chuyển dần từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La Tinh, để rồi trở thành ngôn ngữ chính thức của Hội Thánh trong phụng vụ và các văn kiện Tòa Thánh.

Nghi lễ Rôma mang giá trị truyền thống tông đồ và lan rộng sang nhiều địa phương. Đặc điểm của nghi lễ Rôma là chỉ có một Kinh nguyện Thánh Thể cho mọi thánh lễ, dù rằng có nhiều lời tiền tụng thay đổi.

Nghi lễ Ambrôsiô do thánh Ambrôsiô áp dụng nghi lễ Rôma với ít nhiều thích nghi cho vùng Milan, và nó đã tác động ngược lại trên phụng vụ Rôma (KNTT I, và kinh Te Deum của Giáo Hội Tây Phương được gán cho thánh Ambrôsiô).

Nghi lễ xứ Gaule (Bắc Âu) và Mozarabe (Tây Ban Nha) mượn lại nghi lễ Rôma song có nhiều Kinh Nguyện Thánh Thể, nhiều màu sắc rực rỡ và hoành tráng.

 

VII. GIAI ĐOẠN CANH TÂN

Từ thế kỷ IX đến trước Công đồng Trentô (thế kỷ XVI), phụng vụ bị pha tạp nhiều yếu tố phụ làm lu mờ các cử hành chính, xảy ra nhiều lạm dụng, dị đoan, dẫn đến các phong trào cải cách và phe phái trong Hội Thánh.Công đồng Trentô (1562) đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phụng vụ của Hội Thánh.Công đồng Trentô tái khẳng định các nghi thức thánh lễ là hợp pháp với hai phần: bàn tiệc Lời Chúa  bàn tiệc Thánh Thể, chỉ dùng ngôn ngữ La Tinh trong phụng vụ, và cũng trong thời kỳ này,Hội Thánh có một cuốn sách Giáo lý chung làm nền tảng cho việc huấn giáo và canh tân phụng vụ. Việc canh tân của Công đồng Trentô đã có ảnh hưởng trong phụng vụ Rôma và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Công đồng Vatican II đã kế thừa di sản ấy và tiếp tục đường lối canh tân của Công đồng Trentô.

Hiến chế về Phụng vụ thánh là văn kiện đầu tiên của công đồng Vatican II (1963) đã mở ra những hướng đi tích cực, vừa trở về nguồn Thánh Kinh và Truyền Thống, vừa hội nhập văn hóa để cộng đồng Dân Chúa tham dự một cách chủ động và tích cực như chúng ta thấy hiện nay.

“Giáo Hội Mẹ Thánh coi tất cả những nghi lễ đã được chính thức công nhận đều bình đẳng trên pháp lý và được tôn trọng như nhau, lại muốn các Nghi Lễ ấy được duy trì trong tương lai và được cổ võ bằng mọi cách. Thánh Công Đồng cũng ước mong, nơi nào cần, các Nghi lễ ấy phải được cẩn thận tu chỉnh cho toàn vẹn theo tinh thần truyền thống lành mạnh và được bổ sung một sinh khí mới mẻ hầu phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu hiện tại.”(PV 3).

 

TÓM LƯỢC :

1* H. Tại sao Truyền Thống lại giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử phụng vụ ?

-T. Truyền Thống của Hội Thánh có vai trò quan trọng trong lịch sử phụng vụ vì nó góp phần bảo tồn và chuyển tải di sản tinh thần và đức tin của Hội Thánh, và hình thành các bản văn phụng vụ và tuyên tín vì “luật cầu nguyện là luật đức tin”.

2* H. Người Kitô hữu có quyền sáng tác phụng vụ theo sở thích riêng không ?

-T. Không ai có quyền sáng tác phụng vụ theo ý riêng mình, kể cả giám mục, bởi vì phụng vụ không phải là những họat động riêng tư mà là những cử hành của Hội Thánh; và vì là họat động chung nên phụng vụ phải được quy định rõ ràng bởi những thẩm quyền chính thức trong Hội Thánh, như Hội Thánh đã từng làm trong các giai đoạn lich sử của phụng vụ. Ngoài ra,người ta chỉ được phép thích nghi những chỗ mà chính nghi thức phụng vụ đã nói rõ và cho phép (GL 837; 838/1).

3* H. Ngày nay người tín hữu Công Giáo theo nghi lễ nào của Hội Thánh ?

-T. Người tín hữu Công Giáo chúng ta ngày nay theo nghi lễ Rôma được điều hành bởi Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Bí Tích. Ngoài ra có một số Giáo Hội vẫn hiệp thông hoàn toàn với Hội Thánh Rôma nhưng lại được phép sử dụng nghi lễ riêng của địa phương.

 

 

 

Mục 3 : BẦU KHÍ PHỤNG VỤ 

 

“Con người, một thụ tạo vừa có thân xác vừa thiêng liêng, diễn tả và tiếp nhận các thực tại thiêng liêng qua dấu chỉ và biểu tượng vật chất. Con người có tính xã hội, nên cần dấu chỉ và biểu tượng để giao tiếp với tha nhân qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động.Trong tương quan với Thiên Chúa cũng thế. ” (GLHTCG 1146)

 

Không thể có lễ hội nếu không có nghi thức kèm theo những dấu chỉ và biểu tượng. Bỏ hết đi những dấu chỉ và biểu tượng, đời sống tôn giáo sẽ nghèo nàn và tẻ nhạt. Ngược lại, quá chú tâm đến nghi thức mà đánh mất nội tâm, tôn giáo có nguy cơ biến thành mê tín dị đoan. Khi cử hành phụng vụ, tất cả con người chúng ta phải tham dự vào việc cử hành, không những tâm tình, trí tuệ mà tất cả mọi cơ năng của thân xác.

 

I. CON NGƯỜI CẦN DẤU CHỈ VÀ BIỂU TƯỢNG

Giả như chỉ có lời nói xuông thôi, tình yêu của chúng ta đối với nhau sẽ như thế nào ? Trong những giờ phút quan trọng nhất của đời người, dù vui hay buồn, cần phải có những lời nói và cử chỉ kèm theo mới có thể đánh động lòng người. Trong lãnh vực tôn giáo, thì cử chỉ nghi lễ càng cần thiết để diễn tả những mầu nhiệm, những gì mà lời nói không thể diễn tả hết ý nghĩa.

Thật vậy, lời nói có khả năng làm cho người ta bùi ngùi cảm động, chạm tự ái hay bị tổn thương, hoặc trấn an… là vì trong lời nói đó có những ‘dấu hiệu’ diễn đạt tình mến hay khinh khi… . Hơn nữa, con người có tính xã hội nên rất cần đến dấu chỉ và biểu tượng để giao tiếp. Tuy không làm nên cuộc sống, nhưng nghi lễ lại rất cần cho con người vì nó trao ban một ý nghĩa, làm cho con người trở thành người hơn, như chất keo gắn kết mọi người, vì không có nghi lễ, con người sẽ chỉ làm việc như con ong cái kiến.

Biểu tượng là những yếu tố vật chất hữu hình mà qua đó người ta kiến tạo cho nó một ý nghĩa theo tiến trình sau :

– Trước tiên, dấu chỉ phải là một yếu tố hữu hình, ví dụ: màu sắc, hình ảnh, vật thể…

– Thứ đến, nhờ dấu chỉ hữu hình này mà chúng ta thấy được một cái khác nó, ví dụ: nhìn khói nghĩ tới lửa, quốc kỳ nghĩ tới tổ quốc…

– Sau cùng, biểu tượng hướng chúng ta đến một ý nghĩa hay một thực tại ngòai tầm kinh nghiệm cảm giác. Ví dụ : màu đỏ chỉ máu tử đạo, ngón tay chỉ sức mạnh …

Tuy nhiên, dấu chỉ nhiều khi cũng có nghĩa tương phản, (nước chỉ sự sống họăc sự chết), hoặc sự vật tự nó không có nghĩa nhưng do người ta quy ước, hoặc dấu chỉ biểu tượng cho một ý nghĩa khác nhau tùy theo nền văn hóa hay địa phương (màu trắng chỉ tang tóc đối với người Việt, còn Tây phương lại dùng màu đen).

 

II. THIÊN CHÚA BAN ƠN QUA DẤU CHỈ

Khi Thiên Chúa làm một dấu chỉ nào đó, Người làm theo khả năng hiểu biết và đón nhận của chúng ta. Bí tích là dấu chỉ nhằm diễn tả một ý nghĩa thiêng liêng nhưng có thực. Dấu chỉ lớn nhất của Thiên Chúa là việc Người sai Con mình đến thế gian để mạc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha. Vì thế chúng ta có thể nói rằng Chúa Kitô là Bí Tích tuyệt hảo nhất diễn tả việc Thiên Chúa gặp gỡ loài người. Đến lượt Hội Thánh là ‘bí tích’ diễn tả sự hiện diện của Chúa Kitô ở giữa chúng ta. Trong Hội Thánh, mỗi bí tích là một lời, một dấu hiệu của ơn cứu độ .

Phụng vụ sử dụng rất nhiều dấu chỉ và biểu tượng để chúng ta nhận biết hành động của Thiên Chúa và diễn tả thái độ tôn thờ của con người. Dấu chỉ tự nó không có ý nghĩa, song Hội Thánh mặc cho nó một ý nghĩa, khác với những gì mà chúng ta thấy. Dấu chỉ được dùng trong các bí tích lại là yếu tố thành sự và hữu hiệu làm nên bí tích. Các bí tích thường dùng hai loại dấu chỉ : dấu chỉ bằng lời và dấu chỉ bằng sự vật hay hành động(nước, đặt tay, đọc lời cầu).

Kinh Thánh dùng rất nhiều dấu chỉ và biểu tượng (xức dầu để phong vương, cầu vồng chỉ Giao Ước). Chúa Giêsu cũng sử dụng dấu chỉ song Ngài mặc cho nó một ý nghĩa mới (Manna / Bánh Hằng Sống, nước giếng Giacóp / nước hằng sống…)

 Hội Thánh là dấu chỉ (Bí tích) của Chúa Kitô vì Hội Thánh có nhiệm vụ lưu truyền sứ điệp của Chúa và được ủy thác trao ban các bí tích cho mọi người. Vì thế, Hội Thánh có sứ mạng tổ chức phụng vụ và quy định các dấu chỉ và biểu tượng để diễn tả các thực tại thiêng thánh. Các dấu hiệu có thể thay đổi ý nghiã theo thời gian, môi trường và văn hóa khác nhau. Hội Thánh dành quyền thích nghi phụng vụ vào các nền văn hóa, cách cảm nghĩ của mỗi dân tộc, cho giám mục và Hội đồng giám mục. Về phần người tín hữu, cần tránh lối giải thích dấu chỉ theo trí tưởng tượng cá nhân và cũng đừng làm theo thói quen máy móc.

“Việc cử hành thánh lễ, cũng như toàn bộ phụng vụ, được thực hiện qua các dấu chỉ khả giác, nhờ đó đức tin được nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả. Vì thế, phải hết sức lo liệu, lựa chọn và sắp xếp các hình thức và các yếu tố Hội Thánh đã đề ra, để tùy theo hòan cảnh nhân sự và nơi chốn, các hình thức và yếu tố đó giúp đắc lực hơn cho việc tham dự được tích cực và đầy đủ, đồng thời đáp ứng cách thích hợp hơn lợi ích thiêng liêng của tín hữu.” (QCTQ 20)

 

III. CỬ CHỈ VÀ ĐIỆU BỘ TRONG PHỤNG VỤ

Con người hiện diện bên nhau là nhờ thân xác nên không thể có một phụng vụ nào ngoài thân xác. Không thể có cử hành phụng vụ mà không có dáng điệu và cử chỉ. Trước khi có tiếng nói đã có cử chỉ, và ngay cả im lặng cũng là một dấu chỉ. Cử chỉ có ngôn ngữ riêng. Tâm hồn và thể xác gắn liền nhau nên các cử chỉ và điệu bộ cũng góp phần rất lớn vào thái độ cung kính của con người đối với Thiên Chúa.

Có những cử chỉ đi kèm theo lời nói để nêu rõ giá trị của lời nói (đấm ngực khi đọc kinh Thú Nhận, đặt tay khi cầu nguyện, giơ tay khi chào…). có những cử chỉ có tính biểu trưng, diễn tả một thực tại thuộc lãnh vực khác (chúc bình an, linh mục rửa tay sau khi chuẩn bị lễ vật).

Cử chỉ và điệu bộ trong phụng vụ không phải là bộc phát tự do, song đã được sách phụng vụ quy định rõ ràng :

“Cử chỉ và điệu bộ thân thể của vị tư tế, phó tế, các thừa tác viên, cũng như của giáo dân nhằm làm cho toàn bộ cuộc cử hành toát ra vẻ đẹp, sự thanh cao và đơn sơ, làm cho ý nghĩa thật sự và đầy đủ của các phần khác nhau được nhận thức và làm cho sự tham dự của mọi người được khuyến khích. Do đó, phải chú ý đến những gì được quy định bởi luật phụng vụ và thực hành truyền thống của nghi lễ Rôma, và những gì mang lại lợi ích thiêng liêng chung cho Dân Chúa hơn là ý thích riêng hay tùy tiện” (QCTQ 42).

Sau đây là một vài điệu bộ liên quan đến toàn thân hoặc từng chi thể được quy định trong phụng vụ :

– Đứng là tư thế cơ bản của vị chủ tế, và tín hữu để dâng lễ, tiếp đón và chào mừng. Đứng cũng là dấu chỉ kính trọng, cầu nguyện, tôn vinh và tỉnh thức của người tín hữu đối với Chúa và với nhau. Trong Kinh Thánh, đứng còn là tư thế của kẻ sống lại (Kh 7,9; 15,2), của những người vượt qua về miền đất hứa (Xh 12,11), của những con người tự do (Ga 5,1; Ep 6,1-4).

“Tín hữu đứng : từ đầu ca nhập lễ, hoặc khi vị tư tế tiến tới tiến tới bàn thờ, cho đến hết lời nguyện nhập lễ; khi hát Alleluia trong Tin Mừng; khi công bố Tin Mừng; khi đọc kinh Tin Kính và lời nguyện cho mọi người; từ lời mời ‘Anh chị em hãy cầu nguyện’ trước lời nguyện tiến lễ cho đến hết lễ” (Hội Thánh khuyến khích quỳ khi đọc Kinh Nguyện Thánh Thể) (QCTQ 43).

– Ngồi là tư thế thỏai mái của con người được phụng vụ áp dụng trong việc lắng nghe, chiêm niệm và cầu nguyện.

Dáng điệu ngồi rất thíchhợp cho việc các tín hữu lắng nghe các bài đọc Thánh Kinh, trừ bài Tin Mừng, hát Thánh vịnh đáp ca, khi nghe giảng, lúc chuẩn bị lễ vật, hoặc sau khi rước lễ (QCTQ 43).

– Quỳ là dấu chỉ của lòng sám hối, tôn thờ và khẩn nài. Thánh Kinh nói nhiều đến việc quỳ gối cầu nguyện riêng (Cv 7,50; Cv 9,40; 20,30; Kn 41,43; Et 3,2; Lc 5,8; 22,41)

Trong thánh lễ khi đọc Kinh nguyện Thánh Thể là lúc phụng vụ khuyên nên quỳ. “Những người không quỳ khi Truyền Phép thì phải cúi mình sâu khi vị tư tế quỳ gối sau Truyền Phép” (QCTQ 43).

– Cúi mìnhphủ phục chỉ sự kính cẩn, hạ mình trước một ai đó lớn hơn mình. Đây là cử điệu thông thường của Dân Chúa khi linh mục ban phép lành. Trong Thánh lễ quy định giáo dân phải cúi mình khi đọc “Bởi phép Chúa Thánh Thần … và đã làm người” trong kinh Tin Kính. Khi vào nhà thờ hay cử hành thánh lễ, thay vì bái gối, người Việt chúng ta bái mình, nghĩa là cúi mình sâu. Mỗi khi đọc tên Chúa Giêsu, tên Đức Maria và tên vị thánh mừng kính trong ngày thì vị chủ tế phải cúi đầu chỉ sự tôn kính đặc biệt các vị ấy (QCTQ 275).

-Bước đi là cử động di chuyển, rời chỗ khi phải thi hành một chức năng (lên đọc sách thánh, lên rước lễ…).

– Rước kiệu là dấu chỉ sự tôn vinh, hân hoan, cảm tạ, không nhằm sự khoa trương nhưng là cuộc rước của một cộng đoàn cầu nguyện. Trong Sách lễ Rôma có nói đến bốn lần rước kèm theo bài hát: rước chủ tế ra bàn thờ qua bài ca nhập lễ, rước Sách Tin Mừng đầu lễ và trước bài Phúc Âm qua tiền xuớng trước Phúc Âm, rước của lễ qua ca tiến lễ và đang lúc lên rước lễ qua ca hiệp lễ. Bài hát cũng sẽ chấm dứt ngay khi việc rước đã hoàn tất.

– Chắp tay, khoanh tay chỉ sự nghiêm trang, kính trọng.

– Đấm ngực chỉ sự khiêm nhường, hối lỗi.

– Dang tay là cử chỉ cầu nguyện ngay từ thời các tông đồ.

– Làm dấu thánh giá bắt nguồn từ nghi thức trừ tà trong việc tiếp nhận dự tòng, được lập lại trong đời sống thường ngày của Kitô hữu. Đây cũng là dấu chỉ nhận biết và minh chứng đức tin Kitô giáo. Các tín hữu phải tập ý thức mỗi khi làm dấu thánh giá với tất cả sự nghiêm trang, kính cẩn vì đó là dấu đức tin và cứu độ.

– Thinh lặng cũng là một cử chỉ rất quan trọng và cần thiết phải giữ để tạo bầu khí phụng vụ : im lặng để nghe và im lặng để suy niệm và cầu nguyện.

“Sự thinh lặng, kể như thành phần của việc cử hành Thánh Lễ, cũng phải được tuân giữ đúng lúc. Bản chất của sự thinh lặng tùy thuộc vào lúc phải giữ trong Thánh Lễ. Thật vậy, trong nghi thức sám hối và sau lời mời cầu nguyện, mỗi người hồi tâm lại; sau bài đọc và bài diễn giảng, mỗi người suy gẫm vắn tắt về những gì đã nghe; còn sau khi hiệp lễ thì ca ngợi và cầu xin Chúa trong lòng” (QCTQ 45).

-Kêu cầu là cầu nguyện lớn tiếng để tung hô hay van xin, như kinh Xin Chúa thương xót, kinh Cầu các thánh.

 

IV. CÁC YẾU TỐ VẬT CHẤT DÙNG TRONG PHỤNG VỤ

Các vật dụng dùng trong phụng vụ cũng biểu lộ những tâm tình phụng vụ của người tín hữu :

– Nến và ánh sáng luôn được sử dụng trong các cử hành phụng vụ để nói lên hình ảnh Đức Kitô là ánh sáng vĩnh cửu không bao giờ tắt : Nến Phục sinh biểu tượng cho Chúa Kitô; nến được thắp sáng từ nến phục sinh để trao cho tân tòng …; nến thắp sáng bàn thờ, nến đi rước, canh thức …

– Hương lửa biểu trưng cho các lời nguyện như hương trầm tỏa bay trước tôn nhan Thiên Chúa. Phụng vụ dùng hương lửa cho việc tôn kính các nơi thờ tự, tượng ảnh thánh, sách Phúc Âm, chủ tế và giáo dân(QCTQ 276). Thường là xông hương ba lần, mỗi lần hai nhịp. HĐGM Việt Nam trong thông cáo ngày 14/11/1974 cho phép thi hành và tham dự các nghi lễ thờ cúng tổ tiên nên tại Việt Nam việc xông hương có thể thay thế bằng việc thắp nhang, vái nhang hay niệm hương.

– Hoa lá mang ý nghĩa trang trí chỉ sự tôn vinh, niềm vui và tạ ơn.

– Chén dĩa thánh dùng để đựng Mình Máu thánh Chúa Kitô nên nó phải được kính trọng trong cách sử dụng và chế tạo đồ thánh. Các khăn thánh phải luôn được giữ sạch sẽ để nói lên lòng kính trọng.

– Bánh lễ phải là bánh miến không men, rượu lễ phải là rượu nho tinh tuyền để tôn trọng truyền thống muốn tuân giữ các chất liệu mà xưa kia Chúa Giêsu đã dùng để biến đổi trở thành Mình Máu Ngài.

– Các sách dùng trong phụng vụ như Sách Thánh, sách lễ, sách nghi thức phải được Tòa Thánh phê chuẩn, và mọi tín hữu phải có lòng kính cẩn gìn giữ.

– Dầu thánh phải là dầu ô-liu hay thực vật được làm phép do giám mục địa phương vào sáng thứ Năm tuần thánh, gồm ba loại: Dầu Thánh được dùng trước các bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Truyền Chức thánh, hay khi cung hiến thánh đường, bàn thờ. Dầu dự tòng xức cho dự tòng trước khi cử hành Bí tích Thánh Tẩy. Dầu bệnh nhân dùng cho Bí tích Xức dầu bệnh nhân.

– Nước mang nhiều ý nghĩa biểu tượng như sự sống, sự chết, giải khát, thanh tẩy … được pha vào rượu nho khi dâng lễ, và đặc biệt trong Bí tích Thánh Tẩy.

Lễ phục và màu sắc được dùng phụng vụ cũng nói lên vẻ trang trọng và ý nghĩa của buổi cử hành. Y phục chung cho mọi thừa tác viên là áo dài trắng (alba); và theo quy định bất cứ ai xuất hiện trên cung thánh vào giờ cử hành phụng vụ phải mang áo ốp (alba) này, hoặc áo dòng cộng thêm áo trắng ngắn (surplis). Phó tế mặc áo dài trắng với dây các phép (stola) đeo chéo từ vai trái sang hông bên phải. Linh mục mặc áo dài trắng, dây các phép, áo lễ. Lễ phục màu trắng dùng trong thánh lễ mùa Phục sinh và mùa Giáng Sinh, các lễ kính Chúa (trừ cuộc Thương Khó), các lễ kính Đức Maria, các thiên thần, các thánh (trừ thánh tử đạo). Lễ phục màu đỏ dùng trong Chúa Nhật lễ lá, thứ sáu tuần thánh, lễ Chúa Thánh Thần, lễ các tông đồ và thánh sử, và lễ thánh tử đạo. Lễ phục màu xanh dùng cho các lễ mùa thường niên. Lễ phục màu tím dùng trong lễ mùa Chay và mùa Vọng, hoặc trong lễ an táng, cầu hồn. Riêng ở Việt Nam, lễ phục màu vàng có thể thay cho các màu lễ có tính trang trọng. Lễ phục màu đen cho lễ an táng, và màu hồng cho Chúa Nhật III mùa Vọng và Chúa Nhật IV mùa Chay, ít được sử dụng.

 

V. PHỤNG VỤ VÀ HỘI NHẬP VĂN HÓA

Con cá sống nhờ nước, con chim sống nhờ bầu trời, song con người không chỉ cần nước để sống, cần khí để thở mà còn nhờ đến văn hóa. Bất cứ nền văn hóa nào cũng cần đến dấu chỉ và biểu tượng để nói lên những ý nghĩa và quan niệm về cuộc sống. Lễ hội và nghi thức tôn giáo luôn phản ánh nền văn hóa dân tộc. Con Thiên Chúa làm người trên một mảnh đất, cho nên Tin Mừng Ngài rao giảng cũng mang đậm nét văn hóa một dân tộc. Tin Mừng lại được rao giảng khắp thế giới nên nó lại cần được bén rễ trong những nền văn hóa khác nhau.

Đó là sứ mạng của Hội Thánh trong việc thích nghi và hội nhập văn hóa :

“Bất cứ những gì trong tập tục, không liên quan mật thiết với dị đoan và lầm lạc, đều được Hội Thánh mến phục với thiện cảm, và nếu có thể, còn được bảo tồn trọn vẹn. Hơn nữa, đôi khi những tập tục đó còn được Hội Thánh nhận vào trong Phụng vụ, miễn sao hòa hợp với những nguyên tắc của tinh thần phụng vụ đích thực và chân chính” (PV 37)

“Phụng vụ phải được cử hành phù hợp với đặc tính và văn hóa của các dân tộc. Để mầu nhiệm của Đức Kitô được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa (x. Rm 16,26),Hội Thánh phải loan báo, cử hành và sống trong tất cả các nền văn hóa. Mầu nhiệm Đức Kitô không xóa bỏ, nhưng cứu chuộc và kiện toàn các nền văn hóa. Chính nhờ nền văn hóa riêng được Đức Kitô tiếp nhận và thanh luyện, đông đảo con cái Thiên Chúa đến được với Chúa Cha để tôn vinh Người trong cùng một Thánh Thần” (GLHTCG 1204).

 

TÓM LƯỢC :

1* H. Dấu chỉ và biểu tượng là gì ?

-T. Dấu chỉ và biểu tượng là những yếu tố vật chất hữu hình, song người ta lại kiến tạo cho nó một ý nghĩa mới.

2* H. Tại sao cử chỉ và điệu bộ lại quan trọng trong các cử hành phụng vụ của Hội Thánh ?

-T. Cử chỉ và điệu bộ quan trọng vì con người có thân xác và linh hồn nên cần có các cách diễn tả của thân xác để biểu lộ chiều sâu nội tâm. Hơn nữa, các cử chỉ và điệu bộ trong phụng vụ đều có ý nghĩa riêng biệt, và khi cùng nhau thể hiện lại nói lên tính hiệp nhất của cộng đoàn.

3* H. Tính không gian của phụng vụ là gì ?

-T. Tính không gian của phụng vụ bao gồm nhiều yếu tố như dấu chỉ và biểu tượng, cử chỉ và điệu bộ, cùng các yếu tố vật chất sẽ tạo nên một bầu khí phụng vụ nghiêm trang và linh thánh. Vì thế, các dấu chỉ phải có ý nghĩa, cử chỉ và điệu bộ phải nghiêm túc, các vật dụng và nơi cử hành phải sạch sẽ gọn gàng thì tham dự phụng vụ mới sốt sắng.

 

 

 

Mục 4 : NĂM PHỤNG VỤ 

 

“Năm Phụng Vụ khai triển mầu nhiệm Vượt qua dưới nhiều khía cạnh, đặc biệt là chu kỳ các lễ xoay quanh mầu nhiệm Nhập thể (Truyền Tin, Giáng sinh, Hiển Linh) gợi lại những biến cố khởi đầu ơn cứu độ và cho chúng ta hưởng nhờ hoa trái đầu mùa của mầu nhiệm Phục sinh”. (GLHTCG 1171)

 

Năm phụng vụ là chu kỳ thời gian trong một năm về sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại, trong quá khứ cũng như hiện tại. Theo cái nhìn của lịch sử cứu độ, phụng vụ không chỉ tưởng niệm các biến cố đã xảy ra, nhưng còn hiện tại hóa, làm cho các biến cố ấy đi vào đời sống hôm nay một cách mầu nhiệm.

 

I. LỊCH PHỤNG VỤ

Lịch là một hệ thống đo thời gian cần thiết cho cuộc sống con người thành năm, tháng, tuần, ngày… Âm lịch là lấy một vòng quay của mặt trăng chung quanh trái đất làm một năm, còn Dương lịch lấy một vòng quay của trái đất chung quanh mặt trời làm một năm. Người Rôma sử dụng Dương lịch từ thế kỷ VII trước Đức Giêsu Kitô, nhưng một năm chỉ có 304 ngày và một năm chỉ có 10 tháng, tháng đầu năm là tháng Ba và ngày đầu năm là mồng 1 tháng 3. Bằng chứng là tháng 9, 10,11,12 của chúng ta ngày nay theo La ngữ hay Pháp ngữ : Septembre là tháng Chín (nhưng septem theo Latinh lại là số 7, nghĩa là tháng thứ bảy theo lịch cũ của Rôma),Octobre là tháng Mười (octo : 8), Novembre là tháng 11 (novus : 9), Décembre là tháng 12 (decem : 10).

Năm 46 trước Đức Giêsu Kitô (AC), Jules César đã cải cách lịch Rôma thành một năm có 365 ngày với 12 tháng (thêm tháng 1 và tháng 2 vào đầu năm), ngày đầu năm là mồng 1 tháng Giêng và cứ 4 năm có một năm nhuận 366 ngày (năm nhuận là năm chia chẵn cho 4). Nhiều quốc gia đã sử dụng lịch này nhưng ngày đầu năm (Tết) vẫn chưa mừng vào 01/01.

Sang thế kỷ XVI, các nhà thiên văn và làm lịch nhận thấy 1 năm trung bình có 365 ngày và 6 giờ là có vòng quay chậm hơn vòng quay của trái đất chung quanh mặt trời là 11 phút và 12 giây. Như thế là cho đến năm 1582, so với lịch Jules César, bị chậm mất 10 ngày. Do đó ngày 24/2/1582, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII ban hành sắc chỉ lấy ngày 04/10/1582 làm ngày 15/10/1582; mỗi năm vẫn có 365 ngày, và cứ 4 năm lại có một năm nhuận nhưng những năm cuối thế kỷ (1700, 1800, 1900…) được coi là những năm thường (365 ngày) trừ những năm chia chẵn cho 400 (vd : năm 1600, 2000, 2400 vẫn là những năm nhuận).

Lịch cải cách của Đức Grêgôriô có lợi điểm là phải 4000 năm mới có sự sai biệt 1 ngày, và đã được thế giới sử dụng. Năm 1918, nước Nga mới nhìn nhận lịch Grêgôriô, vì thế cuộc cách mạng 1917 của Nga được gọi là Cách Mạng Tháng Mười theo cách gọi của lịch cũ, còn chính xác thì cuộc cách mạng xảy ra vào ngày 07/11/1917 theo lịch Grêgôriô.

Về niên biểu, mỗi nước có một cách tính niên hiệu riêng, thường là dựa vào triều đại của các vua. Đức Giêsu sinh vào thời mà dân tộc Do Thái đang sử dụng Âm lịch và đế quốc Rôma đang sử dụng Dương lịch. Đất nước Do Thái đang bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, cho nên các tác giả sách Phúc Âm xác định niên biểu theo niên hiệu của các hoàng đế Rôma (x. Lc 3,1) hoặc tính từ năm thành lập thành Rôma. Vào thế kỷ VI, một tu sĩ tên là Điônixiô đã quy định thời đại Kitô giáo, lấy năm Đức Giêsu sinh ra làm năm thứ nhất, tương ứng với năm 754 kể từ năm lập quốc Rôma. Tu sĩ này đã dựa vào Lc 3,1 (Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô) để xê dịch các niên hiệu Rôma thành niên hiệu Chúa Giêsu Kitô (trước Đức Giêsu viết là AC hoặc sau Đức Giêsu là PC), nhưng cách tính của ông có sự sai sót vài năm. Thế nên, Đức Giêsu phải sinh ra trước đó vài năm, khoảng năm 6 – 4 AC.

Hội Thánh Công Giáo có lịch riêng là lịch Phụng vụ, bắt đầu từ Chúa Nhật I mùa Vọng (khoảng cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12) cho tới tuần cuối cùng của mùa thường niên. Tuy nhiên trong các sinh hoạt, Hội Thánh vẫn theo lịch dân sự đang thịnh hành ngày nay, và ghi thêm vào đó các ngày lễ Công Giáo.

 

II. NGÀY CHÚA NHẬT

“Theo truyền thống tông đồ bắt nguồn từ chính ngày Chúa Kitô sống lại, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Phục sinh vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật đáng được gọi là ngày của Chúa hay ngày Chúa Nhật’ (PV 106). Ngày Chúa Kitô Phục sinh vừa là ‘Ngày thứ nhất trong tuần’ vừa gợi lại ngày đầu của công trình sáng tạo, vừa là ‘Ngày thứ tám’, sau khi ‘an nghỉ’ trong ‘ngày Sa-bát vĩ đại’, Chúa Kitô khai mạc ‘ngày Chúa đã làm nên’, ‘ngày không còn đêm tối’. Bữa tiệc của Chúa là trọng tâm của ngày này, ở đó tất cả cộng đoàn tín hữu được gặp Chúa Kitô Phục sinh, Đấng mời gọi họ vào dự tiệc : ‘Hôm nay là Ngày của Chúa, ngày của các Kitô hữu, cũng là ngày của chúng ta. Hôm nay được gọi là ngày của Chúa, vì là ngày Đức Giêsu khải hoàn lên với Chúa Cha. Nếu người ngoại giáo gọi là ‘ngày mặt trời’, chúng ta cũng sẵn sàng chấp nhận: vì hôm nay, muôn dân được thấy Ánh Sáng, hôm nay Mặt Trời Công Chính mang lại ơn cứu độ xuất hiện’ (Th Giêrimô).

Ngày Chúa Nhật là ngày tuyệt hảo để cộng đoàn tín hữu tập họp cử hành Phụng Vụ, ‘để lắng nghe Lời Chúa và tham dự vào Bí tích Thánh Thể, để kính nhớ sự Thương Khó, Phục sinh và Vinh quang của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Người đã dùng sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô từ trong kẻ chết mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động’ (PV 106)” (GLHTCG 1166-1167)

Họp nhau cử hành mầu nhiệm Vượt Qua vào ngày Chúa Nhật là một truyền thống sống động bắt nguồn từ thời các tông đồ, nên nó không chỉ là luật buộc, mà còn là một nhu cầu sinh tử của Kitô giáo và là một đòi hỏi nội tại của đức tin các Kitô hữu. Nếu các Kitô hữu họp nhau vào một ngày khác mà lại không phải là ‘Ngày của Chúa’, ngày truyền thống của Hội Thánh, thì còn gì là hiệp thông nữa ! Vì thế Hội Thánh không bao giờ bỏ mất ngày Chúa Nhật của mình vì Hội Thánh không thể từ khước bản chất của mình là cộng đoàn họp mừng mầu nhiệm Vượt Qua của những kẻ tin vào Chúa Phục Sinh.

Giáo Luật điều 1248 khỏan 1 quy định :

“Ai tham dự thánh lễ vào chính ngày lễ hay vào chiều ngày trước lễ, thì người ấy đã chu toàn việc buộc dự lễ”.

Vì thế, thánh lễ chiều thứ Bảy và chiều trước ngày lễ trọng sẽ phải cử hành cho long trọng và đầy đủ mọi yếu tố của ngày chính lễ. Nếu lễ trọng có lễ vọng thì chiều hôm trước phải cử hành lễ vọng, còn nếu không có lễ vọng thì chiều hôm trước cử hành bản văn của chính ngày lễ trọng hôm sau.

 

III. TÂM ĐIỂM CỦA NĂM PHỤNG VỤ

Năm phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ, và tuyệt đỉnh của lịch sử này là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô. Các lời rao giảng tiên khởi của các tông đồ (kerygma) đều xoay quanh mầu nhiệm Tử Nạn và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô (Cv 2,14-36; 3,12-26; 4,1012; 5,29-32) như một mẫu số chung cho các lời rao giảng và cử hành phụng vụ. Ban đầu, phụng vụ của Hội Thánh tiên khởi chỉ triển khai mầu nhiệm Vượt Qua như là tâm điểm của phụng vụ và là nội dung căn bản của sứ điệp Tin Mừng. Dần dần, phụng vụ thêm vào những mầu nhiệm khác của Chúa Giêsu nhưng tất cả đều tập trung vào mầu nhiệm Tử Nạn và Phục sinh là nội dung duy nhất của phụng vụ.

Công đồng Nixê (325) đã quyết định thống nhất ngày cử hành lễ Phục sinh trong toàn Hội Thánh vào ngày Chúa Nhật sau ngày 14 tháng Nisan của người Do Thái. Do đó, lễ Phục sinh không cố định mà xê dịch hàng năm.

Năm Phụng Vụ bắt đầu với Chúa Nhật I mùa Vọng và kết thúc bằng lễ Chúa Kitô Vua, xen kẽ với việc mừng kính các mầu nhiệm về Chúa, Đức Maria và các thánh, và đỉnh cao là Tam Nhật Vượt Qua.

 

IV. MÙA PHỤNG VỤ

Năm Phụng Vụ chia làm 5 mùa:

 

1) Mùa Vọng :

– Mùa Vọng (Adventus) là mùa hướng lòng về ngày Chúa Kitô sẽ lại đến trong vinh quang để xét xử thế giới và con người, nhưng gần hơn cả là chuẩn bị tâm hồn và đời sống để mừng mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh. Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta nhìn lên Chúa, Đấng đang đến với chúng ta mỗi giây phút và một cách đặc biệt khi ‘Người sẽ lại đến trong vinh quang’.

– Mùa Vọng kéo dài trong khoảng 4 tuần lễ, bắt đầu từ Chúa Nhật I đến chiều ngày 24/12. Từ đầu mùa Vọng đến hết ngày 16/12 nhằm hướng đến ngày cánh chung; còn từ ngày 17/12 nhằm chuẩn bị mừng đại lễ Giáng Sinh. Trong suốt mùa Vọng, lễ phục mang màu tím nói lên sự hoán cải trông đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

2) Mùa Giáng Sinh :

– Mùa Giáng Sinh mừng kính mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa làm người. Lễ Giáng sinh đầu tiên được cử hành trọng thể vào khoảng năm 300, nhằm ngày 25/12 là ngày lễ thờ Thần Mặt Trời của dân ngoại. Đây là ngày trong năm có đêm dài nhất (Đông Chí) và bắt đầu ngày mặt trời đi lên quỹ đạo cao nhất mang ánh sáng chiếu soi vạn vật. Hội Thánh muốn nhân cơ hội lễ này để xác định Chúa Kitô là ‘ánh sáng chiếu soi trong đêm tối’ và là ‘mặt trời công chính soi sáng muôn dân’ (Ga 1,5 ; Lc 1,79).

– Mùa này kéo dài khoảng hơn hai tuần, từ ngày 25/12 (lễ Giáng sinh bắt đầu từ chiều hôm trước) đến hết lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Mùa Giáng Sinh có tuần bát nhật Giáng Sinh nhưng không được long trọng mừng kính cùng mức độ như tuần bát nhật Phục sinh, vì các ngày trong tuần bát nhật Phục Sinh đều được mừng như lễ trọng.

3) Mùa Chay :

– Mùa Chay là mùa thống hối, trở về với Chúa để sửa soạn tâm hồn đón mừng lễ Phục Sinh, một thời gian rất quan trọng cho đời sống thiêng liêng của Hội Thánh và của mỗi tín hữu. Mùa Chay cũng là mùa chuẩn bị trực tiếp cho các dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo trong đêm Vọng Phục Sinh. Mùa Chay, theo nguyên nghĩa, là mùa 40 ngày, con số này mang ý nghĩa biểu tượng Kinh Thánh : 40 năm dân Do Thái đi trong hoang địa để vào đất hứa, 40 ngày Môsê ở trên núi Giao Ước Sinai, 40 ngày Êlia chạy trốn lên núi Horeb, 40 ngày Đavít phải đối đầu với Gôliát, 40 ngày Giôna rao giảng sám hối ở Ninivê và 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu.

Có lẽ ban đầu mùa Chay khởi sự từ Chúa Nhật I mùa Chay đến chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh (Chúa Nhật I – V cộng thêm 5 ngày của Tuần Thánh = 40 ngày). Thế nhưng ngày Chúa Nhật là ngày kính Chúa Phục sinh không được phép ăn chay, nên mùa Chay đã sớm bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, trước Chúa Nhật I. Dù vậy cũng chưa đủ 40 ngày ăn chay (mới có 38 ngày chay), lẽ ra phải bắt đầu mùa Chay vào ngày thứ Hai mới đủ 40 ngày nhưng truyền thống đạo đức xem ngày thứ Tư và thứ Sáu là ngày sám hối. Tuy nhiên nếu cộng thêm 2 ngày chay thánh nữa của Tam Nhật Vượt Qua là Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh thì vẫn đủ 40 ngày ăn chay.

– Chuyển tiếp giữa mùa Chay và mùa Phục Sinh là TAM NHẬT VƯỢT QUA THÁNH. Tam Nhật Vượt Qua là ngày Thứ Sáu, Thứ Bảy và Chúa Nhật Phục Sinh, bắt đầu từ chiều Thứ Năm Tuần Thánh (vì ngày đại lễ đối với người Do Thái được bắt đầu từ chiều ngày hôm trước) cho đến hết ngày Chúa Nhật Phục sinh. Cũng có người chủ trương Tam Nhật Vượt Qua là ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh, nhưng như vậy thì chưa nói lên ý nghĩa đầy đủ của mầu nhiệm Vượt qua : vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ cuộc sống trần thế về với Chúa Cha trên trời.

Trong Tam Nhật Vượt Qua không được cử hành thánh lễ ngoại lịch, kể cả lễ an táng, ngoại trừ :

Sáng Thứ Năm Tuần Thánh, trong một giáo phận chỉ có một Thánh Lễ làm phép Dầu Thánh do Đức Giám Mục cử hành, có sự đồng tế của linh mục đoàn, để sử dụng cho cả năm. Chiều Thứ Năm Tuần Thánh cử hành Thánh Lễ Tiệc Ly, tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể, sau lễ có Chầu Thánh Thể cho đến nửa đêm. Ngày thứ Sáu và Thứ Bảy tuần Thánh không cử hành Thánh Lễ, nhưng chiều Thứ Sáu có nghi thức Hôn Kính Thánh Giá để tưởng nhớ cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Chiều tối thứ Bảy Tuần Thánh là đã bắt đầu ngày đại lễ nên có cử hành Thánh Lễ Vọng Phục Sinh.

 

4) Mùa Phục Sinh :

“Phục sinh không chỉ là một ngày lễ như bao lễ khác, nhưng là ngày ‘lễ trên hết các lễ’, cũng như Bí tích Thánh Thể là ‘bí tích trên các bí tích’. Mầu nhiệm Phục sinh, mầu nhiệm Đức Kitô toàn thắng sự chết, đem lại cho thời gian già cỗi của chúng ta, sức sống mãnh liệt, cho đến khi mọi sự phải quy phục Đức Kitô”. (GLHTCG 1169)

– Lễ Phục sinh được ấn định vào một Chúa Nhật sau lễ Vượt qua của người Do Thái nên lễ này thay đổi hàng năm. Mùa Phục sinh kéo dài 50 ngày, bắt đầu từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến hết lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, thời gian này được cử hành trong niềm hân hoan phấn khởi, và được coi như một ngày lễ duy nhất, hơn nữa như một Đại Chúa Nhật. Các ngày thường trong tuần Bát nhật phục sinh được cử hành như lễ trọng kính Chúa (không đọc kinh Tin Kính), vì thế không được phép cử hành bất cứ thánh lễ ngoại lịch nào, ngoại trừ thánh lễ an táng.

 

5) Mùa Thường Niên :

– Mùa thường niên gồm 34 tuần (lễ phục màu xanh lá cây), xen kẽ giữa mùa Giáng Sinh và mùa Chay (khoảng 8, 9 tuần), giữa mùa Phục Sinh và mùa Vọng (các tuần còn lại). Giáo Hội không cử hành một khía cạnh đặc biệt nào về mầu nhiệm Chúa Kitô, nhưng lại tôn kính chính mầu nhiệm Chúa Kitô trong toàn bộ.

Ngoài ra, trong Năm Phụng Vụ, Hội Thánh còn ‘tôn vinh Đức Maria vinh hiển, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã nối kết với công trình cứu chuộc của Con Người bằng mối dây bất khả phân ly’ (PV 103-104). Đồng thời, Hội Thánh cũng kính nhớ các thánh Tử Đạo và các thánh khác; qua đó, Hội Thánh công bố mầu nhiệm Phục Sinh nơi các ngài và trình bầy cho các tín hữu những gương mẫu tuyệt vời, lôi kéo họ đến với Chúa Cha qua Chúa Kitô.

Muốn biết hôm nay là ngày lễ gì, thuộc mùa gì, tuần mấy… thì phải mở Lịch Công Giáo của từng năm.

 

 

V. LỄ TRỌNG, LỄ KÍNH & LỄ NHỚ

Lịch phụng vụ chia làm ba bậc lễ để kính nhớ các mầu nhiệm của Chúa, các đặc ân của Đức Maria và các thánh :

 

1) Lễ trọng chia làm hai loại : lễ trọng chung và lễ trọng riêng.

-Lễ trọng chung là các lễ trọng được xác định rõ trong sách phụng vụ mà toàn thể Hội Thánh phải mừng kính. Có 15 lễ trọng chung cho Giáo Hội toàn cầu: 10 lễ kính Chúa, 3 lễ kính Đức Maria và 4 lễ kính các thánh. Lễ Phục sinh và Giáng Sinh là hai lễ trọng đặc biệt, kéo dài trong 8 ngày gọi là tuần Bát Nhật, tuy nhiên tuần Bát Nhật Giáng Sinh không được ưu tiên như tuần Bát nhật Phục sinh.

-Lễ trọng riêng chỉ được mừng kính trong một Hội Thánh địa phương. Chẳng hạn lễ Các thánh tử đạo Việt Nam (24/11) là lễ trọng riêng đối với Hội ThánhViệt Nam vì là lễ bổn mạng Hội Thánh Việt Nam, còn đối với Hội Thánh toàn cầu chỉ là lễ nhớ.

Tất cả các lễ trọng chung hay riêng đều được bắt đầu từ Kinh Chiều I ngày hôm trước, nghĩa là ngày mừng lễ sẽ dài hơn một ngày bình thường. Vì thế thánh lễ chiều hôm trước (sau Kinh Chiều I) đều phải cử hành lễ trọng kính của ngày hôm sau, nghĩa là ngày chính lễ, ngọai trừ một vài lễ có lễ vọng thì phải cử hành lễ vọng (Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Maria lên trời, Sinh nhật Gioan Tiền Hô, Phêrô và Phaolô).

Ngoài ra,còn có thánh lễ được kính trọng thể, nghĩa là mừng kính cách đặc biệt hơn vào ngày Chúa Nhật thường niên trước hay sau đó vì lợi ích mục vụ của các tín hữu nơi đó (ví dụ: lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam 24/11 được rời lên Chúa Nhật trước vì Chúa Nhật sau đó thường là lễ Chúa Kitô Vua; lễ Mân Côi tuy là lễ nhớ buộc nhưng được mừng kính trọng thể vào Chúa Nhật).

 

2) Lễ kính ở bậc thấp hơn lễ trọng và chỉ giới hạn trong một ngày bình thường nên không có Kinh Chiều I, trừ lễ kính Chúa trùng vào ngày Chúa Nhật thường niên. Lịch phụng vụ đề ra ba loại lễ kính : 6 lễ kính Chúa, 2 lễ kính Đức Maria, 17 lễ kính các thánh (Giáo Hội Việt Nam mừng thêm 2 lễ kính riêng: Têrêxa và Phanxicô Xaviê).

 

3) Lễ nhớ chia làm hai loại : lễ buộc nhớ và lễ nhớ tùy ý. Các ngày lễ nhớ buộc trong mùa Chay thì chỉ mừng như lễ nhớ tùy ý, không bó buộc phải cử hành. Khi lịch chung để tên nhiều vị thánh kính nhớ tùy ý trong cùng một ngày thì chỉ chọn một vị thánh để mừng, còn những vị khác được bỏ.

 

4) Lễ theo nhu cầu :

Có ba loại lễ theo nhu cầu :

Lễ có nghi thức riêng thường đi kèm với việc cử hành một bí tích nào đó: Hôn Phối, Truyền Chức, Thêm Sức …

Lễ do nhu cầu tùy theo hòan cảnh : lễ tạ ơn, lễ cầu mùa

Lễ ngoại lịch là do lòng đạo đức của giáo dân đòi hỏi : thứ Sáu kính Thánh Tâm, thứ Bảy kính Đức Mẹ …

Tuy nhiên, các lễ theo nhu cầu được cử hành hay không, còn tùy thuộc vào các mùa hoặc lịch phụng vụ.

Ví dụ :

* Không được cử hành bản văn và bài đọc thánh lễ Hôn Phối vào các lễ trọng, các Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục sinh, thứ Tư lễ Tro, Tuần Thánh, lễ 2/11, tuần Bát nhật Phục Sinh, nhưng được cử hành nghi thức bí tích Hôn Phối trong các ngày lễ Chúa Nhật (sau bài giảng) và được phép đọc lời chúc hôn sau kinh Lạy Cha và ban phép lành riêng ở cuối lễ.

Trong các Chúa Nhật mùa Giáng Sinh và mùa thường niên : vẫn phải cử hành lễ Chúa Nhật nhưng có thể thay đổi bằng một bài đọc sách thánh về Hôn phối. Nếu không có cộng đoàn Giáo Xứ tham dự mà chỉ có gia đình hôn lễ thì được phép cử hành toàn bộ bản văn và bài đọc riêng của lễ Hôn phối.

* Thánh lễ an táng được cử hành bất cứ ngày nào, trừ ngày lễ trọng buộc, thứ Năm tuần thánh, Tam nhật Vượt Qua và các Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục Sinh. Nếu cử hành an táng vào các ngày này, người ta buộc phải dùng bản văn và bài đọc của ngày lễ đó, và sau lời nguyện hiệp lễ được làm nghi thức từ biệt.

 

 

 

BẢNG THỨ TỰ ƯU TIÊN

 

Thứ tự ưu tiên trong việc cử hành các ngày phụng vụ phải nhất thiết căn cứ vào bảng quy định sau đây :

 

I

1* TAM NHẬT VƯỢT QUA tưởng niệm cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa.

2* Lễ Giáng Sinh, Hiển Linh, Thăng Thiên và Hiện Xuống.

Các Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục sinh.

Thánh lễ an táng (QCTQ 380 : cấm cả sáng và chiều thứ Năm Tuần Thánh)

Thứ Tư Lễ Tro.

Các ngày trong Tuần Thánh từ thứ Hai đến hết thứ Năm.

Các ngày trong Tuần Bát Nhật Phục sinh.

3* Các lễ trọng kính Chúa, Đức Mẹ và các Thánh có ghi trong lịch chung.

Lễ cầu cho mọi tín hữu đã qua đời (2/11).

4* Các lễ trọng riêng, tức là :

a) Lễ trọng thánh bổn mạng chính của địa phương, thành phố hay quốc gia;

b) Lễ trọng Cung hiến thánh đường, hay ngày kỷ niệm cung hiến thánh đường đó.

c) Lễ trọng mừng tước hiệu của nhà thờ.

d) Lễ trọng của dòng tu hay tu hội mừng tước hiệu, hoặc thánh sáng lập dòng, hay bổn mạng chính của dòng.

 

II

Thánh lễ có nghi thức riêng (QCTQ 372)

Thánh lễ tùy nhu cầu và ngọai lịch theo lệnh của đấng bản quyền địa phương (QCTQ 374)

5* Các lễ kính Chúa có ghi trong lịch chung.

6* Các Chúa Nhật mùa Giáng Sinh và Thường niên.

7* Các lễ kính Đức Mẹ và các thánh có ghi trong lịch chung.

8* Các lễ kính riêng, tức là :

a) Lễ bổn mạng của chính địa phận.

b) Lễ kỷ niệm cung hiến nhà thờ Chánh Tòa.

c) Lễ kính bổn mạng chính của miền, tỉnh, nước hay một vùng rộng lớn.

d) Lễ kính của dòng tu hay tu hội và tỉnh dòng mừng tước hiệu, thánh sáng lập, thánh bổn mạng, trừ những điểm đã nói trong số 4.

e) Các lễ kính khác có ghi trong lịch địa phận, dòng tu hay tu hội.

Thánh lễ cầu hồn khi vừa được tin một người qua đời hay trong ngày giỗ đầu (QCTQ 381)

9* Các ngày trong tuần thuộc mùa Vọng từ 17/12 đến hết 24/12.

Các ngày trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.

Các ngày trong tuần mùa Chay.

 

III

Thánh lễ tùy theo nhu cầu và ngoại lịch theo sự xét đoán của vị phụ trách thánh đường hay của chính linh mục chủ tế (QCTQ 376)

10* Các lễ nhớ bắt buộc có ghi trong lịch chung.

11* Các lễ nhớ bắt buộc riêng, tức là :

a) Các lễ nhớ bổn mạng phụ của địa phương, địa phận, miền hay tỉnh, quốc gia, một vùng rộng lớn, của dòng tu hay tu hội và tỉnh dòng.

b) Ít nhiều lễ nhớ bắt buộc riêng của một vài nhà thờ.

c) Các lễ nhớ không bắt buộc đã nói tới một cách đặc biệt trong Quy chế tổng quát về thánh lễ và thần vụ, thì có thể xảy ra vào cả ngày đã nói ở số 9. Cũng vì lý do đó, khi những lễ nhớ bắt buộc trùng với những ngày trong tuần mùa Chay, thì có thể cử hành như lễ nhớ không bắt buộc.

13* Các ngày trong tuần, từ đầu mùa Vọng đến hết 16/12.

Các ngày trong tuần mùa Giáng Sinh từ 2/1 đến thứ bảy sau lễ Hiển Linh.

Các ngày trong tuần thuộc mùa Phục sinh, từ thứ Hai sau tuần Bát Nhật Phục sinh đế thứ Bảy trước lễ Hiện Xuống.

Thánh lễ tùy nhu cầu và ngọai lịch theo lòng đạo đức của giáo dân (QCTQ 377).

Thánh lễ cầu hồn hằng ngày (QCTQ 381)

Các ngày trong tuần thuộc mùa thường niên.

 

TÓM LƯỢC :

1* H. Ngày Chủ Nhật có tầm quan trọng thế nào ?

-T. Ngày Chủ Nhật được gọi là ‘Ngày của Chúa’, ngày Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, và theo truyền thống từ thời các tông đồ, các tín hữu tụ họp nhau lại lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể; và đây cũng là luật kiêng việc nặng nhọc ngày Chúa Nhật.

2* H. Tâm điểm của Năm Phụng vụ là gì ?

-T. Tâm điểm của năm Phụng vụ là mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, khởi đầu năm phụng vụ với CN I mùa Vọng và kết thúc với lễ Chúa Kitô Vua, xen kẽ vào các mầu nhiệm kính Chúa, Đức Maria và các thánh, và cao điểm vẫn là Tam Nhật Vượt Qua.

3* H. Các mùa phụng vụ được sắp xếp nhu thế nào ?

-T. Các mùa phụng vụ được sắp xếp như sau : cao điểm là mùa Phục sinh rồi đến Giáng Sinh, và được chuẩn bị bằng mùa Chay và mùa Vọng, còn xen kẽ giữa các mùa gọi là mùa thường niên.

4* H. Lễ trọng, lễ kính và lễ nhớ khác nhau thế nào ?

-T. Lễ trọng ở bậc cao nhất chia làm hai loại : lễ chung cho toàn cầu và lễ riêng cho địa phương; và thời gian mừng lễ trọng dài hơn một ngày bình thường, nghĩa là luôn bắt đầu từ chiều hôm trước.

Lễ kính chỉ gói gọn trong một ngày bình thường, và thấp hơn lễ trọng.

Lễ nhớ ở bậc thứ ba và có hai loại : lễ nhớ bắt buộc và lễ nhớ không bắt buộc.

 

 

 

Mục 5 : PHỤNG VỤ THÁNH LỄ 

 

“Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em : trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói : ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,23-24)

Khi cử hành Thánh Lễ, Hội Thánh không làm gì khác hơn là tuân theo lệnh truyền của Chúa: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (KNTT)

 

A. Ý NGHĨA CỦA THÁNH LỄ [2]

   Thánh Lễ mang nhiều ý nghĩa :

1/ Hy lễ thánh  : Thánh lễ nhằm hiện tại hóa hy lễ của Chúa Kitô dâng một lần duy nhất trên thập giá xưa để cứu độ nhân loại. Giá trị của Thánh lễ thuộc hoàn toàn vào Chúa Kitô, Ngài hiện diện qua Lời Chúa khi được công bố qua vai trò của thừa tác viên, nơi bàn thờ và nơi của lễ.

2/ Bàn tiệc thánh : Thánh lễ được gọi là bữa ăn của Chúa nơi đó con người được mời gọi tham dự bàn tiệc thần linh. Nhờ rước Mình và Máu Chúa Kitô chúng ta đón nhận sự sống đời đời, từ đó đời sống đức tin được tăng trưởng luôn mãi.

 3/ Cuộc tưởng niệm gọi : Thánh lễ tưởng niệm cuộc vượt qua của Chúa Kitô, chết và sống lại. Khi tưởng niệm, một đàng Giáo Hội xác tín vào biến cố Vượt qua của Chúa Kitô mang giá trị cứu độ, đàng khác Giáo Hội khám phá và tạ ơn Thiên Chúa vì lịch sử cứu độ đã hoàn tất viên mãn nơi biến cố vượt qua của Chúa Kitô. Tưởng niệm không mang nghĩa kỷ niệm thụ động hay nhớ nhung, nhưng là hồi tưởng các công trình của Thiên Chúa trong quá khứ, để rồi hiện tại hóa công trình đó trong đời sống đức tin, nhờ sự hhiện diện của Cháu Kitô.

4/ Nghi lễ bẻ bánh  : Thánh lễ là nơi Chúa Kitô trao ban chính mình cho nhân loại khi Ngài cầm lấy bánh bẻ ra trao cho các môn đệ. Tham dự thánh lễ trước tham dự vào một tấm bánh duy nhất là Chúa Kitô. Thật vậy, khi tham dự vào tấm bánh duy nhất đó, người tín hữu biểu lộ sự hiệp nhất và kiến tạo đời sống hiệp thông trong Giáo Hội.

5/ Mầu nhiệm Đức tin và cực thánh : Con người chỉ có thể tham dự thánh lễ trong đức tin, Giáo Hội tin làm sao cử hành như vậy Thánh lễ được gọi là mầu nhiệm cực thánh và là tâm điểm của tất cả phụng vụ Kitô giáo.

6/ Thánh lễ gắn liền với sứ mạng truyền giáo  : Truyền giáo là làm cho muôn dân nhận biết Chúa Giêsu, Đấng cứu độ. Thánh lễ cho chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu, để từ cảm nghiệm này người tín hữu sẽ dẫn người khác đến gặp gỡ Ngài kết thúc Thánh lễ không phải là hoàn tất một công việc phải làm cho xong, nhưng là khởi đầu một sứ vụ mới, sứ vụ truyền giáo, nghĩa là Thánh lễ thúc giục chúng ta lên đường đến với người khác để làm cho họ nhận biết Chúa Giêsu và từ đó họ chọn lựa để theo Ngài.

 

 

B. CẤU TRÚC THÁNH LỄ 

 

I. NGHI THỨC ĐẦU LỄ

“Các nghi thức trước phụng vụ Lời Chúa, tức là ca nhập lễ, lời chào, nghi thức sám hối, kinh Lạy Cha, xin thương xót, kinh Vinh Danh và lời nguyện nhập lễ đều có tính cách mở đầu, dẫn nhập và chuẩn bị. Mục đích các nghi lễ này là giúp cho các tín hữu đã tập hợp được hiệp thông với nhau và chuẩn bị tâm hồn để nghe Lời Chúa cho nghiêm chỉnh và để cử hành Thánh Lễ cho xứng đáng”(QCTQ 46).

1) Ca nhập lễ :

Các bài tường thuật về việc tập họp khi cử hành nghi lễ bẻ bánh trong những thế kỷ đầu dường như chưa có nghi thức rõ ràng. Lý do là vì các tín hữu thời ấy còn cử hành Thánh Thể tại gia, và vì Hội Thánh chưa được tự do nên chưa thể tổ chức những nghi thức đầu lễ như sau này. Theo như thánh Justinô (tk II) thì cộng đoàn phụng vụ bắt đầu ngay bằng việc đọc Thánh Kinh.

Bắt đầu từ thế kỷ thứ tư trở đi, đã thấy xuất hiện thói quen hát Thánh Vịnh như mở đầu cho việc tập họp cộng đoàn phụng vụ, hoặc mở đầu bằng cuộc kiệu sách Phúc Âm và rước giám mục bằng cách hát xướng Thánh Vịnh và dân chúng lập lại các điệp khúc. Đây là hình thức ban đầu của ca nhập lễ với màu sắc hân hoan đón chào Chúa hiện diện giữa cộng đoàn, đặc biệt qua vị chủ sự và các thừa tác viên của cộng đoàn.

Phần tập họp cộng đoàn này có hai yếu tố chính :

 Cuộc rước đầu lễ có bài ca đi kèm, tức ca nhập lễ, được thực thi dưới hai hình thức : rước trọng thể và rước đơn giản.

Rước trọng thể có người cầm hương lửa đi đầu rồi đến thánh giá nến cao, các thừa tác viên không có chức thánh, Phó tế mang sách Phúc Âm chứ không phải sách bài đọc (hoặc một linh mục đồng tế, hoặc thừa tác viên đọc sách hay giúp lễ vì luật phụng vụ không dự trù cho giáo dân mang sách Phúc Âm (QCTQ 120d, 173, 194); sách Phúc Âm được rước sẽ đặt trên bàn thờ, và khi công bố Tin Mừng thì phó tế hoặc linh mục rước từ bàn thờ đến giảng đài), các phó tế, các linh mục đồng tế và cuối cùng là chủ tế có giúp lễ theo sau (trong bất cứ cuộc rước nào cũng không được thiếu thánh giá đèn hầu; khi rước kiệu ngày Chúa Nhật lễ Lá thì chủ tế sẽ đi ngay sau thánh giá đèn hầu rồi đến các thừa tác viên khác và cộng đồng).

Còn rước đơn giản là khi dân chúng đã tập họp thì giúp lễ và chủ tế tiến ra giữa nhà thờ, bái chào rồi hôn bàn thờ (không cần thánh giá và hương nến).

Khi chủ tế tiến ra là đã hát ca nhập lễ, nếu không hát thì đọc ca nhập lễ được in trong Sách Lễ Rôma. Có thể dùng Thánh Vịnh hoặc một bài thánh ca nào đó phù hợp với cử hành phụng vụ, với tính chất của ngày lễ, hay mùa phụng vụ. Mục đích của bài ca nhập lễ là tập họp cho nên khi cuộc rước đã hoàn tất thì không nên kéo dài bài hát. Tất cả các bài hát muốn được sử dụng trong thánh lễ hay nói chung trong các cử hành phụng vụ phải được thầm quyền của Hội Thánh phê chuẩn.

– Cử chỉ chào kính đầu lễ : trước hết là cử chỉ tôn kính đối với Chúa Kitô qua việc chủ tế cúi mình chào và hôn kính bàn thờ, rồi chào chúc cộng đoàn qua dấu thánh giá và câu đối đáp đưa cộng đoàn vào mầu nhiệm sắp cử hành trong tương quan với các ý lễ và các biến cố của cuộc sống. Các cử chỉ này tạo nên mối hiệp nhất của cộng đoàn được Thiên Chúa quy tụ.

2) Nghi thức sám hối :

Nghi thức sám hối bao gồm kinh Thú Nhận và kinh Thương Xót. Phần sám hối này không chú trọng vào việc xét mình tỉ mỉ như khi lãnh nhận bí tích thống hối cộng đồng, mà chỉ nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, đặt niềm cậy trông và xin thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng tham dự vào cử hành thánh lễ.

“Sau một chút thinh lặng, tất cả cộng đoàn đọc công thức thú tội chung và vị tư tế đọc lời xá giải để kết thúc. Lời xá giải này không có hiệu quả của bí tích thống hối. Vào ngày Chúa Nhật, nhất là trong mùa Phục sinh, thay vì nghi thức thống hối thường lệ, thỉnh thoảng nên làm phép và rẩy nước thánh để nhớ lại phép Rửa” (QCSLRM 51).

Sau nghi thức sám hối là kinh Thương Xót, trừ khi kinh này đã dùng trong phần sám hối. Phụng vụ ngày nay cũng bỏ kinh Thú Nhận và kinh Thương Xót khi Thánh Lễ đã được khởi đầu bằng một nghi thức phụng vụ, chẳng hạn sau cuộc rước Lễ Lá, sau nghi thức rảy nước thánh, khi kết hợp với một giờ kinh phụng vụ, hay vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, … hoặc thay bằng những lời kêu cầu Chúa Kitô (x. SLRM trang 566).

3) Kinh Vinh Danh :

Kinh Vinh Danh là một trong những bài hát cổ xưa của Hội Thánh thời kỳ đầu, và hiện nay được hát trong các Chúa Nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay, cũng như trong các lễ trọng, lễ kính và các dịp lễ đặc biệt. Kinh Vinh Danh chỉ cấm vào các Chúa Nhật mùa Vọng và mùa Chay, nhưng khi các lễ trọng và lễ kính trùng vào mùa này thì vẫn hát như thường lệ, đang khi câu tung hô Alleluia bị cấm cả ở những lễ trọng và lễ kính nằm trong mùa Chay ( chỉ đọc câu tiền xướng trước Phúc Âm mà không có câu Alleluia; QCTQ 62).

4) Lời nguyện nhập lễ :

Lời nguyện này có tính lịch sử lâu dài vì ngày xưa khi chưa thành hình nghi thức sám hối và kinh Vinh Danh thì vị chủ tế đã luôn khởi đầu cử hành phụng vụ bằng một lời nguyện để tập họp cộng đoàn và dẫn vào phụng vụ Lời Chúa. Lời nguyện nhập lễ hôm nay được gọi là lời tổng nguyện, diễn tả đặc tính của từng buổi lễ.

Lời tổng nguyện mang đậm nét Ba Ngôi, thường hướng về Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần.

Có ba yếu tố căn bản sau đây :

– Lời mời gọi cầu nguyện : “Chúng ta hãy…”

– Giây phút thinh lặng để hiệp ý với chủ tế.

– Lời nguyện có ba phần : tung hô phẩm tính của Chúa, lời chúc tụng hay tâm tình nài xin, và câu kết dài.

Câu đáp “AMEN” được sử dụng trong phụng vụ thường mang hai ý nghĩa :

– Diễn tả một ước muốn nguyện xin, chấp thuận và tán thành một lời cầu nguyện hay một việc làm nào đó vừa được thực hiện để nói lên niềm tin tưởng cậy trông hoặc chúc tụng cảm tạ Thiên Chúa đã hoặc sẽ thực hiện điều con người khẩn nài.

– Diễn tả đức tin của tín hữu trước một cử hành vừa được thực hiện, chẳng hạn trước khi rước lễ : Tôi tin thật Chúa Kitô đang hiện diện trong hình bánh thánh và tôi đón rước Chúa ngự vào lòng; hoặc khi kết thúc dấu thánh giá hoặc kinh Tin Kính; và như vậy, Amen có nghĩa là lời tuyên xưng đức tin.

Luật phụng vụ chỉ cho phép chủ tế đọc hoặc chọn đọc một trong các lời tổng nguyện, chứ không được phép phối hợp hay thay đổi lời nguyện đã được Hội Thánh quy định (QCTQ 54 : “trong thánh lễ luôn luôn chỉ đọc một lời nguyện nhập lễ”).

 

II. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Phụng vụ Lời Chúa bắt nguồn từ thực hành của Dân Chúa trong thời Cựu Ước. Chúa Giêsu đã tham dự hoặc đã đọc và giải thích Thánh Kinh tại các hội đường Do Thái (Lc 4,16). Các tông đồ và cộng đoàn tiên khởi cũng đã tham dự các buổi hội họp ở hội đường Do Thái; và rồi hình thành phụng vụ Lời Chúa cho riêng mình theo cách thế của người Do Thái nhưng dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô. Phần Phụng vụ Lời Chúa bắt đầu từ bài đọc Thánh Kinh thứ nhất, và kết thúc khi đọc xong lời nguyện tín hữu.

1) Các bài đọc Thánh Kinh :

Công đồng Vatican II khi canh tân thánh lễ đã nhắm ý hướng: “Mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn nữa, để trong một khoảng thời gian nhất định, dân Chúa sẽ được nghe những phần Kinh Thánh quan trọng” (PV 51).Vì không thể đọc hết các bản văn Thánh Kinh quan trọng trong một năm nên phụng vụ Lời Chúa được chia thành chu kỳ 3 năm A-B-C, còn ngày thường của mùa thường niên được chia thành hai năm chẵn và lẻ (năm I và năm II).

Việc sắp xếp năm A, B hay C của ngày Chúa Nhật không nhất thiết phải theo một chủ đề. Bài đọc một thường rút ra từ Cựu Ước sao cho phù hợp với bài Tin Mừng lễ hôm đó (trừ mùa Phục sinh đọc sách Công Vụ).Bài đọc hai được chọn từ các thư Tân Ước và không nhất thiết phải trùng hợp ý tưởng với bài Tin Mừng. Còn bài đọc ba bao giờ cũng được rút ra từ một trong bốn sách Tin Mừng. Các bài Tin Mừng được chọn để nói lên ý nghĩa của ngày lễ hay mùa phụng vụ, còn trong các Chúa Nhật thường niên thì đọc theo thứ tự.

Việc đọc các bài Thánh Kinh chiếm một chỗ quan trọng trong các buổi cử hành phụng vụ, vì thế cần phải công bố Lời Chúa tại giảng đài, một vị trí mà mọi người đều có thể nhìn thấy. Sang thời Trung Cổ, linh mục đọc sách thánh ở bên trái bàn thờ rồi sang bên phải bàn thờ để đọc bài Tin Mừng, còn bài giảng sẽ được giảng giải ở một chỗ riêng giữa lòng nhà thờ và tách rời khỏi thánh lễ. Trong khi đọc lời nguyện nhập lễ, không nên di chuyển, chỉ đến khi đọc câu kết “Chúng con cầu xin …” mới đi lên đọc sách thánh.

Bài đọc 1 và 2 không có vị trí nổi bật như bài Tin Mừng nên mọi người ngồi khi nghe đọc hai bài sách thánh này, và việc công bố cũng không trang trọng như bài Tin Mừng. Vì thế không được đề cao hai bài đọc này bằng cách áp dụng những nghi thức dành cho bài Tin Mừng, như bắt mọi người đứng nghe, hoặc một người đọc và một người đứng bên cạnh chờ hát đáp ca, hoặc chú rể đọc thì cô dâu đứng hầu bên cạnh; cũng không được giơ cao sách bài đọc như kiểu rước sách từ chỗ ngồi của người đọc lên giảng đài; hoặc từ một chỗ để sẵn ở cung thánh xuống giảng đài (QCTQ 120); cũng không được chia vai để đọc các bài Thánh Kinh, trừ bài Thương Khó trong Tuần Thánh; cũng không được công bố hai bài sách thánh này ở một giảng đài khác với giảng đài công bố bài Phúc Âm. Thái độ đúng đắn nhất khi nghe các bài sách thánh là im lặng nghe một người thay mặt cộng đoàn công bố, chứ không phải làm cho sinh động như một màn trình diễn.

Mỗi nhà thờ phải có một Giảng đài cố định (tòa Phúc Âm không xê dịch như kiểu một giá sách), khác với bàn thờ và ghế chủ sự, có một vị trí trang trọng để công bố Lời Chúa (chung cho cả ba bài đọc). Để tôn trọng Lời Chúa, giảng đài chỉ dành riêng cho việc công bố Lời Chúa, hát Thánh vịnh đáp ca, công bố Tin Mừng Phục sinh, và xướng các ý nguyện chung (không được sử dụng tòa Phúc Âm để dẫn lễ, tập hát, thông báo,… (QCTQ 309).

Lời dẫn vào các bài đọc tuy không thuộc thành phần của thánh lễ nhưng cũng được phép làm để giúp cộng đoàn hiểu một số ý chính của bài đọc sắp nghe. Tuy nhiên lời dẫn phải vắn tắt, không được phép dài hơn bài đọc, chỉ cần nêu lên một hai ý chính để chuẩn bị người nghe, và tránh kiểu nói huấn dụ như một bài giảng hay bài suy niệm (bài Tin Mừng không cần phải có lời dẫn).

2) Đáp ca :

“Khi nghe các bài sách thánh là Thiên Chúa nói với dân của Người, và đáp lại Thiên Chúa bằng tiếng hát lời kinh” (PV 33). Thánh Vịnh đáp ca là lời đáp trả của con người sau khi nghe Chúa nói qua các bài đọc, vì thế các Thánh Vịnh này đã được Hội Thánh chọn lựa sao cho phù hợp với bài sách thánh vừa đọc. Dùng chính Lời Chúa để thưa lại với Chúa là xứng đáng và vui lòng Chúa nhất. Vì thế không ai được phép thay thế đáp ca bằng một bài hát nào không phải là Thánh Vịnh; và cũng chỉ nên thay thế bằng các Thánh Vịnh mà sách bài đọc đã chọn sẵn để thay đổi.

Cách đọc hay hát Thánh Vịnh đáp ca thông thường là một người hát một số câu rồi cộng đoàn đáp lại bằng một điệp ca ngắn. Người hát sẽ đứng ở toà giảng hay một nơi nào thuận tiện trước công chúng.

 

3) Lời tung hô trước Phúc Âm :

Alleluia là tiếng Do Thái, có nghĩa là hãy chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa. Nguyên thuỷ, Phụng vụ dùng từ Alleluia để diễn tả đặc tính hân hoan trước khi nghe bài Tin Mừng, trong khi Phó tế rước sách Tin Mừng thì người ta lập lại nhiều lần tiếng Alleluia. Về sau người ta thêm vào một câu ca quy hướng về bài Tin Mừng sắp nghe đọc.

Alleluia được phép đọc hay hát vào các mùa phụng vụ, trừ mùa Chay (QCTQ 62). Bởi thế,các lễ trọng nào rơi vào mùa Chay cũng không được phép đọc hay hát Alleluia (như lễ Thánh Giuse, lễ Truyền Tin: có kinh Vinh Danh nhưng không hát hay đọc Alleluia). Vào mùa Chay, lời tung hô Alleluia được thay thế bằng một tiền xướng Phúc Âm. Vì Alleluia và câu xướng có ý nghĩa đi kèm với cuộc rước sách Phúc Âm, nên cần lập lại nhiều lần câu xướng hoặc chỉ lập lại tiếng Alleluia cho đến khi sách Phúc Âm đã được rước tới giảng đài.

Trong trường hợp chỉ có một bài đọc trước bài Tin Mừng thì “Alleluia hay câu trước Tin Mừng, nếu không hát thì có thể bỏ” (QCTQ 63c). “Ca tiếp liên, ngoài lễ Phục sinh và Hiện Xuống thì được tuỳ ý, và được hát sau Alleluia” (QCTQ 64)

4) Bài Phúc Âm :

Sách Phúc Âm được tôn kính như chính Chúa Kitô, và từ rất sớm, đã hình thành việc rước sách Phúc Âm như là rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem ngày xưa, và chỉ những người có chức thánh mới được quyền công bố Tin Mừng (trừ bài thương khó, ca viên có thể đảm nhận vai người kể và vai phụ). Luật phụng vụ không cho phép cộng đoàn cầm sách theo dõi hoặc cùng đọc với linh mục, cũng không được phép cho giáo dân đọc lại sau khi linh mục đã đọc.

Trước khi công bố Tin Mừng, có lời chúc “Chúa ở cùng anh chị em” để nhấn mạnh chính Chúa đang nói trong thánh lễ, và mọi người ghi dấu thánh giá trên mình. Khi vẽ dấu thánh giá trên trán, chúng ta xin Chúa mở trí để hiểu Lời Chúa; trên miệng để xin Chúa mở miệng chúng ta biết nói lời của Chúa; và trên ngực để xin Chúa mở lòng chúng ta biết yêu mến Lời Chúa. Bởi lẽ chúng ta không thể hiểu Lời Chúa theo thánh ý của Thiên Chúa và đúng như truyền thống của Hội Thánh nếu Chúa không soi sáng. Chúng ta có khuynh hướng hay nói theo ý riêng mình nên dễ làm mất lòng nhau, còn Lời Chúa là lời tốt đẹp, là lời chân thực nên Chúa có uốn nắn thì chúng ta mới nói theo Lời Chúa. Chúng ta không thể làm theo Lời Chúa nếu Lời Chúa không xuất phát từ cõi lòng nên chúng ta phải xin Chúa mở lòng để yêu mến và cất giữ Lời Chúa tận trong trái tim. Việc mọi người hướng nhìn về toà Phúc Âm, việc xông hương, cũng như lời tung hô của người nghe và cử chỉ hôn kính sách Phúc Âm của người đọc đều nói lên những tâm tình tôn kính đó.

5) Bài diễn giảng :

Việc diễn giảng trong cử hành phụng vụ chỉ dành riêng cho những người có chức thánh, dù người đó chủ tế hay giúp lễ, đồng tế hay không đồng tế vẫn có thể giảng trong thánh lễ; không có việc chia sẻ theo nhóm ở trong thánh lễ.

Nội dung của bài giảng là “diễn giải một hoặc các bài đọc Thánh Kinh, hoặc một bản văn khác thuộc phần thường lễ hay phần riêng của thánh lễ ngày đó, đồng thời lưu ý đến mầu nhiệm được kính nhớ, hay nhu cầu riêng biệt của thính giả” (QCTQ 65).

Bài giảng là một thành phần của thánh lễ và cần thiết để nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu (QCTQ 65). Đây không phải là phần nhiệm ý nhưng là quy định của Hội Thánh phải diễn giảng trong các ngày Chúa Nhật và lễ buộc khi có đông giáo dân tham dự (QCTQ 66).

Bài Tin Mừng luôn luôn phải công bố ở Toà Phúc Âm, còn bài giảng có thể thực hiện ở ghế chủ sự hay một chỗ khác. Ngày xưa vì cử hành thánh lễ bằng tiếng Latinh nên bài giảng đã bị đưa ra sau thánh lễ và diễn giảng tại toà giảng ở giữa nhà thờ nơi một bục cao.

6) Kinh Tin Kính :

Kinh Tin Kính là lời tuyên xưng đức tin để đáp lại Lời Chúa vừa được loan báo và diễn giải trong các thánh lễ Chúa Nhật và lễ trọng. Lời kinh thuộc ngôi thứ nhất số ít, nhưng lại được cộng đoàn đọc hay hát để nhấn mạnh đức tin đòi hỏi ý thức dấn thân của mỗi người. Kinh Tin Kính thường dùng trong thánh lễ là bản kinh của công đồng Nixê-Côngtăngtinô (Nicée-Constantinople) (tk IV), nhưng vẫn có thể thay thế bằng kinh Tin Kính của các tông đồ, hoặc dùng công thức tuyên xưng đức tin của Bí tích Thánh Tẩy trong đêm Vọng Phục sinh.

7) Lời nguyện tín hữu :

Công đồng Vaticanô II đã tái lập lại lời nguyện chung này trong các thánh lễ Chúa Nhật, lễ trọng và các lễ đặc biệt. Sau phần gợi ý cầu nguyện của chủ tế là phần xướng các ý nguyện do Phó tế (ưu tiên số một) hay một ai đó xướng tại giảng đài hay một nơi nào đó thích hợp, hoặc phân chia cho nhiều người đọc.

Thứ tự những ý nguyện thường là :

– Cho các nhu cầu của Hội Thánh.

– Cho chính quyền và thế giới.

– Cho một hạng người, hay một trường hợp đặc biệt.

– Cho cộng đoàn địa phương (QCTQ 70).

Các ý nguyện khác với lời nguyện, vì ý nguyện chỉ là câu gợi ý cho cộng đoàn cầu nguyện, còn lời nguyện là do chủ tế cầu nguyện nhân danh cộng đoàn. Vì thế, không nên khởi đầu bằng câu “Lạy Chúa”, làm thế sẽ lẫn lộn với lời cầu nguyện của chủ tế.

Có thể nêu trực tiếp, chẳng hạn: “Chúng ta hãy cầu nguyện cho…”; hoặc nêu lý do rồi mới mời gọi cầu nguyện: “Thiên Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy cầu nguyện cho… ; Chúng ta chúc tụng Chúa…, xin cho…”.

Nói chung mỗi ý nguyện phải ngắn gọn, dễ hiểu và cầu xin một ý thôi. Sau mỗi ý nguyện, cộng đoàn biểu lộ sự đồng tình bằng một câu đáp chung hay cầu nguyện trong thinh lặng (QCTQ 71). Lời nguyện kết của chủ tế là lời xưng hô với Chúa Cha hoặc Chúa Giêsu, (không xưng hô với Đức Mẹ hay các thánh) rồi lời nài xin và câu kết ngắn.

 

III. PHỤNG VỤ THÁNH THỂ

Phụng Vụ Thánh Thể liên kết với Phụng vụ Lời Chúa để làm nên một cử hành phụng tự duy nhất. Phụng vụ Thánh Thể bắt đầu từ việc chuẩn bị lễ vật đến hết lời nguyện hiệp lễ, và có ba phần rõ rệt :

 

1) Chuẩn bị lễ vật .

– Xin lễ kèm theo bổng lễ :

Truyền thống của Hội Thánh tiên khởi là Dân Chúa đem đến của lễ vừa để cử hành Thánh Thể, vừa để trợ giúp Hội Thánh, đặc biệt là những người nghèo. Dần dà ý tưởng dâng lễ vật trong thánh lễ an táng đã dẫn đến việc xin lễ cầu nguyện theo ý chỉ rõ rệt và có kèm theo bổng lễ. Hội Thánh đã nhìn nhận tập tục xin lễ như để góp phần vào sinh hoạt của Hội Thánh và trợ giúp linh mục :

“Theo tập tục đã được Hội Thánh công nhận, một tư tế cử hành hay đồng tế Thánh Lễ được phép nhận bổng lễ để áp dụng theo một ý chỉ rõ rệt” (GL 945/1).

“Khi dâng bổng lễ để Thánh Lễ được áp dụng theo ý chỉ của mình, các tín hữu đóng góp vào thiện ích của Hội Thánh : bằng việc dâng cúng ấy, họ góp phần nâng đỡ các thừa tác viên và các hoạt động của Hội Thánh” (GL 946).

 Ngày nay Hội Thánh khuyên nên dâng lễ vật vào các ngày Chúa Nhật, lễ trọng và các dịp đặc biệt; và dù các ngày thường không có việc dâng lễ vật thì ý nghĩa và hiệu lực của nó vẫn có như xưa.

– Sửa soạn bàn thờ và nhận lễ vật :

Theo như Quy chế tổng quát của Sách Lễ Rôma năm 2000 số 73 nói việc đầu tiên là sửa soạn bàn thờ, cũng gọi là bàn tiệc của Chúa, trung tâm của mọi cử hành Thánh Thể. Việc sửa soạn bàn thờ gồm có trải khăn thánh, khăn lau chén, Sách Lễ và chén lễ. Kế đến, chủ tế hay phó tế xuống nhận lễ vật do giáo dân mang lên là bánh và rượu để đưa lên bàn thờ, còn những phẩm vật khác không trực tiếp dùng vào việc cử hành Thánh Thể, như hoa đèn, hoa quả, tiền bạc… phải để ở một nơi nào xứng hợp ngoài bàn thờ. Vì thế người ta thường chưng hoa nến ở những kệ giá riêng biệt khỏi bàn thờ.

Thực ra, điều quan trọng trong việc dâng lễ vật là phải có bánh rượu và nước thì mới có cử hành thánh lễ, nên phải được ưu tiên hơn mọi thứ khác; và ý nghĩa của nó là để nói lên lòng tri ân Thiên Chúa về muôn ân huệ đã nhận lãnh, vừa muốn góp phần vào của lễ sẽ được biến đổi thành Mình Máu Chúa, vừa để trợ cấp cho các sinh hoạt của Hội Thánh.

Ca tiến lễ được hát ngay khi bắt đầu nhận của lễ hay chuẩn bị bàn thờ , chứ không phải đợi chủ tế đọc lời chúc tụng trên của lễ rồi mới hát (QCTQ 74). Sau khi nhận lễ vật xong, vẫn có thể tiếp tục hát, hoặc đọc đối đáp với điều kiện bài hát này mang ý nghĩa tiến dâng hoặc chúc tụng.

– Việc xông hương của lễ và bàn thờ :

Bánh lễ theo truyền thống ban đầu của Hội Thánh trong nhiều thế kỷ là sử dụng bánh có men hoặc không men. Truyền thống Tây Phương thường dùng bánh không men theo gương Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly. Hình dạng của bánh lễ tròn mỏng có in hình Chúa Giêsu như hiện nay có từ thế kỷ XII. Bánh được nướng khô để dễ bảo quản, và có thể bẻ ra nhiều phần cho một ít giáo dân cùng rước lễ là tốt nhất.

Sau lời chúc tụng trên bánh, phó tế hay linh mục pha nước vào rượu. Theo tập quán Rôma ngày xưa, khi uống các loại rượu nặng, người ta pha thêm nước để giảm nồng độ, và thường làm trước mặt thực khách.Hội Thánh đã đón nhận cách thực hành này và dần dần người ta thêm vào đó những ý nghĩa mới là dấu chỉ nhân loại được thông phần vào bản tính của Thiên Chúa :

“Nhờ dấu chỉ nước hòa rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con” (NTTL).

– Sau phần chúc tụng trên bánh và rượu, chủ tế có thể xông hương lễ vật, bàn thờ, thánh giá rồi Phó tế hoặc giúp lễ xông hương cho chủ tế, vì thừa tác vụ thánh, và cộng đoàn, vì phẩm giá phép Rửa. Nếu dùng lư hương thì lúc này chủ tế tiến ra bỏ hương hay vái nhang theo tập tục địa phương, chứ không phải là nhận lễ vật rồi vái nhang luôn cho tiện.

Có hai ý nghĩa trong việc xông hương: lời cầu nguyện và sự kính trọng. Việc xông hương là hình ảnh của lời cầu nguyện và lễ vật của dân Chúa như hương trầm toả bay dâng lên trước tôn nhan Thiên Chúa.

– Việc rửa tay :

Việc rửa tay có ngay từ lúc ban đầu vì lễ vật ngày xưa là những hoa màu ruộng đất và cả những vật dụng của đời sống để trợ giúp người nghèo và các sinh hoạt của Hội Thánh,nên chủ tế cần rửa tay trước khi dâng lễ. Ngày nay nghi thức rửa tay vẫn được duy trì nhưng mang ý nghĩa thanh tẩy: “biểu lộ lòng ao ước được thanh tẩy trong tâm hồn” (QCTQ 76).

– Lời mời gọi :

“Anh chị em hãy cầu nguyện để hy lễ của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận”, thoạt đầu là lời của chủ tế nói với những người dâng lễ vật ngay khi họ dâng lễ vật, bây giờ được đổi ra sau như muốn nói với toàn thể cộng đoàn phụng vụ, rằng lễ vật của chủ tế dâng cũng là của toàn thể Dân Chúa.

– Lời nguyện tiến lễ :

Lời nguyện nhập lễ kết thúc phần mở đầu thánh lễ để dẫn vào Phụng vụ Lời Chúa, thì lời nguyện tiến lễ kết thúc phần chuẩn bị lễ vật để dẫn vào cử hành Thánh Thể, và lời nguyện hiệp lễ kết thúc Phụng vụ Thánh Thể để chuyển sang phần kết lễ.

Lời nguyện trên lễ vật diễn tả tâm tình tạ ơn và xin Chúa thương nhận của lễ được Hội Thánh dâng tiến để trở thành Mình và Máu Chúa Kitô.

 

2) Kinh Nguyện Thánh Thể .

“Bây giờ bắt đầu điểm trung tâm và cao nhất của toàn bộ việc cử hành, nghĩa là chính kinh nguyện Thánh Thể, gồm việc tạ ơn và thánh hoá. Vị tư tế mời gọi giáo dân hướng tâm hồn lên để cầu nguyện và tạ ơn Chúa; đồng thời liên kết họ với mình trong lời cầu nguyện, để nhân danh tất cả cộng đoàn dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha, qua Đức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần. Ý nghĩa của lời cầu nguyện này là toàn thể cộng đoàn tín hữu kết hiệp với Đức Kitô mà tuyên xưng những kỳ công của Thiên Chúa và hiến dâng hy lễ” (QCTQ 78).

Kinh nguyện Thánh Thể bắt đầu từ kinh tiền tụng đến hết vinh tụng ca. Trước Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh Rôma chỉ có một Kinh nguyện Thánh Thể duy nhất (Kinh nguyện Thánh Thể I) với nhiều lời tiền tụng thay đổi. Trước Vatican II, thánh lễ bằng tiếng La Tinh nên cộng đoàn tham dự bằng cách đọc lời dẫn giải, lần hạt, … Quy chế sách lễ Rôma hiện nay nhấn mạnh :

“Những phần dành cho vị chủ tọa, thì buộc chủ tế phải đọc rõ ràng, lớn tiếng và buộc mọi người phải chăm chú lắng nghe. Vì thế, khi chủ tế đọc các phần đó, không ai được đọc hay hát kinh nào khác, cũng không được đánh đàn hay chơi nhạc cụ nào khác” (QCTQ 32).

– Kinh tiền tụng :

Sau phần đối đáp giữa chủ tế và cộng đoàn để hiệp nhất với lời tạ ơn của Chúa Kitô, lời tiền tụng có ba phần rõ rệt: lời tạ ơn Thiên Chúa qua Đức Kitô, lý do tạ ơn dựa vào mầu nhiệm mừng kính, và lời kết dẫn vào lời tung hô của cộng đoàn. Phụng vụ có 4 kinh nguyện Thánh Thể nhưng có hơn 80 lời tiền tụng khác nhau dành cho các thánh lễ. Ngoài ra còn có 9 Kinh nguyện Thánh Thể khác dành cho các lễ sám hối, tùy nhu cầu và lễ trẻ em.

– Kinh Thánh Thánh Thánh :

Lời tung hô Thánh, Thánh, Thánh là lời kinh kết hiệp lời tung hô của các thiên thần với lời ca vang của dân Do Thái đón Chúa vào thành, để chúc tụng Thiên Chúa và tung hô Đức Kitô :

“Thánh ! Thánh ! Chí thánh !

Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh !

Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa !” (Is 6,3).

“Hoan hô Con Vua Đavít !

Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa !

Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21,9).

– Kinh khẩn cầu Chúa Thánh Thần :

Trong cử hành Thánh Thể, lời khẩn cầu Thánh Thần thánh hóa lễ vật có một vai trò quan trọng đặc biệt, vì chỉ có Chúa Thánh Thần tác động thì linh mục đọc lời Truyền Phép mới biến đổi bánh và rượu thành Thánh Thể. Không có Chúa Thánh Thần thì việc cử hành Thánh Thể không thể hiện tại hóa công trình cứu độ của Đức Kitô. Lời Truyền Phép là lời của Đức Giêsu, nhưng lời này chỉ sinh hiệu quả nhờ Thánh Thần. Ba Kinh Nguyện Thánh Thể mới được thêm vào sau Công đồng Vatican II đã lưu ý tới vai trò của Chúa Thánh Thần trong hy tế Thánh Thể. Mỗi kinh đều có hai lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần ở trước và sau lời Truyền Phép để nài xin Thiên Chúa thánh hóa và biến đổi bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô, và sau truyền Phép là xin cho mọi người khi thông phần Mình Máu Chúa trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô. Các lời khẩn xin Thánh Thần trước khi Truyền Phép đều được linh mục vừa đọc vừa đặt tay trên lễ vật, một cử chỉ cổ truyền để ban ơn Chúa Thánh Thần.

– Phần tường thuật việc thiết lập Thánh Thể :

Khi tường thuật lại việc Chúa Kitô thiết lập Thánh Thể, Hội Thánh muốn minh chứng đức tin của mình vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô và chính Chúa cử hành qua thừa tác vụ của Hội Thánh. Các lời Truyền Phép trong sách Tân Ước tuy có khác nhau, song vì lý do mục vụ, Hội Thánh chỉ duy trì một công thức giống nhau cho các Kinh Nguyện Thánh Thể.

“Trong phần tường thuật việc lập Bí tích Thánh Thể, nhờ hiệu lực của lời và cử chỉ Đức Kitô, cũng như quyền năng của Thánh Thần, bánh rượu trở thành Mình và Máu Đức Kitô, lễ vật chính Người đã dâng trên thập giá” (GLHTCG 1353).

– Kinh tưởng niệm :

Hội Thánh tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn, phục sinh và cuộc quang lâm vinh hiển của Đức Giêsu như một lời khẳng định đức tin vào mầu nhiệm Vượt qua là trung tâm của mọi cử hành thánh lễ. Trong thánh lễ, chúng ta không tưởng niệm người vắng mặt, nhưng tưởng nhớ Đấng Hằng Sống, và tưởng nhớ mãi cho đến ngày Quang Lâm, như câu tung hô sau Truyền Phép.

“Khi cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh tưởng nhớ cuộc Vượt qua của Đức Kitô; lúc đó, cuộc Vượt qua này trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Đức Kitô trên thập giá chỉ dâng một lần là đủ và luôn luôn sống động để đem lại ơn cứu độ” (GLHTCG 1364).

Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin vào cuộc Vượt qua của Chúa Kitô, và diễn tả niềm hy vọng cánh chung của con người được trở nên giống Chúa Kitô khi Ngài lại đến trong vinh quang.

– Lời nguyện dâng tiến :

Đây là lời dâng lên Chúa Cha để xin Người ban Thánh Thần thánh hóa Hội Thánh trở nên Thân Thể sống động của Chúa Kitô. Nhớ đến Chúa Giêsu, chúng ta phải làm việc mà Chúa đã làm khi xưa trong bàn tiệc ly và vẫn tiếp tục làm trong Hội Thánh khi chúng ta cử hành Thánh Thể. Đó là mỗi Kitô hữu hãy hiến dâng thân mình làm lễ vật hy sinh như Chúa đã làm. Chúng ta là thân thể huyền nhiệm của Chúa thì hãy để cho Chúa dâng hiến Thân Mình Ngài lên Chúa Cha làm lễ vật tạ tội cho nhân loại được ơn giao hòa. Mỗi khi tham dự thánh lễ là mỗi lần chúng ta cùng với Chúa Giêsu dâng lễ, và lễ vật cũng chính là thân mình của chúng ta, vì hết thảy chúng ta thuộc về Nhiệm Thể của Ngài.Chúa Giêsu không thể tự hiến trọn vẹn nếu như vẫn còn một chi thể của Ngài chưa cùng Ngài hiến tế (x. QCTQ 78 f ).

Khi Hội Thánh cử hành Thánh Thể thì không còn là Chúa Giêsu năm xưa nữa, mà là Chúa Giêsu Phục sinh, Đấng đã chết rồi đã sống lại và hiện đang sống đến muôn thuở muôn đời. Có thể nói có hai Thân Mình của Chúa Giêsu trên bàn thờ : Thân Mình thật của Ngài là thân xác ‘được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria’ và đã Phục sinh; và Thân Thể huyền nhiệm của Ngài là Hội Thánh cũng hiện diện một cách mầu nhiệm trên bàn thờ. Vì thế khi nói: “Này là Mình Ta”, thì trong cái Ta của Chúa có cái tôi nhỏ bé của các Kitô hữu; và thánh Phaolô gọi là “Chúa Kitô toàn thể”, khi ngài viết: “Tôi làm trọn những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô nơi thân xác tôi” (Col 1,24).

Vì lẽ đó, cũng có thể nói có hai hiến vật trên bàn thờ : một hiến vật là bánh và rượu sẽ trở nên Mình và Máu Chúa, và một hiến vật khác là chính người tín hữu sẽ trở thành Nhiệm Thể Chúa Kitô. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, III và IV có hai lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần : một lời khẩn cầu cho bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa, và một lời lời khẩn cầu sau Truyền Phép xin cho tất cả chúng ta “trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”, “một của lễ muôn đời dâng tiến Chúa”.

– Kinh chuyển cầu :

Mỗi khi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, phụng vụ thường xen vào các lời chuyển cầu cho Hội Thánh toàn cầu, cho Đức Giáo Hoàng và Đức Giám Mục giáo phận, cho sự hiệp nhất của Hội Thánh, cho những người đã qua đời, và cho những người đang tham dự cử hành Thánh Thể.

Kinh chuyển cầu này nói lên mầu nhiệm Hội Thánh thông công.

– Vinh tụng ca :

Vinh tụng ca là lời tung hô Ba Ngôi kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể như là cùng đích của cử hành phụng vụ. Lời tôn vinh quy chiếu về Chúa Cha nhờ Chúa Kitô (cùng với Người và trong Người), và trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần. Dù rằng cả Ba Ngôi đều nhận một quyền năng và vinh dự như nhau, song lời tôn vinh của con người chỉ có giá trị khi được liên kết với Chúa Kitô và qua sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

 

IV. NGHI THỨC HIỆP LỄ

Nghi thức hiệp lễ bắt đầu từ kinh Lạy Cha đến hết lời nguyện hiệp lễ.

1) Kinh Lạy Cha .

Kinh Lạy Cha là kinh của các con cùng một Cha trên trời nài xin bánh sự sống, và cũng là kinh của các anh chị em biết tha thứ cho nhau khi uống “Máu đổ ra để tha tội” của Chúa. Sau Vinh tụng ca, chủ tế đọc lời mời cầu nguyện rồi hết mọi tín hữu cùng đọc kinh Lạy Cha với ngài. Hội Thánh không ngăn cản cử chỉ dang tay của giáo dân cùng với linh mục đọc kinh Lạy Cha, song để cho Hội Đồng Giám Mục các nước quy định để có sự thống nhất trong một Giáo Hội địa phương.

2) Nghi thức chúc bình an.

Cử chỉ trao ban bình an nguyên thủy đi trước phần dâng tiến lễ như một dấu chỉ hòa giải và tha thứ trước khi dâng lễ (Mt 5,23). Sau này trước khi lên rước lễ, người ta cũng trao ban bình an cho nhau vì tất cả cùng ăn một bánh và uống chung một chén. Chúc bình an là cử chỉ hòa giải đã nhắc tới trong kinh Lạy Cha bây giờ được thể hiện trước khi san sẻ cùng một tấm bánh. Mỗi người làm hòa với những người chung quanh để cho thấy mình muốn sống bình an với hết mọi người.

Quy định cách thức trao ban bình an thuộc thẩm quyền của Hội Đồng Giám Mục để thích nghi với hoàn cảnh và văn hóa mỗi địa phương. HĐGM Việt Nam quy định giáo dân chúc bình an thì hai bên quay vào nhau, tay để trước ngực, cúi đầu chào nhau, còn đối với linh mục đồng tế thì nói thêm câu: “Bình an của Chúa ở cùng cha”.

3) Nghi thức bẻ bánh.

Đây chính là việc bẻ Bánh ra làm nhiều phần để chia cho nhau và muốn nói rằng chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ chia sẻ một bánh sự sống là Đức Kitô, cũng như chúng ta tuy nhiều nhưng phải hiệp nhất nên một thân thể là Đức Kitô.

Đang lúc bẻ Bánh thì cộng đòan đọc hay hát kinh Chiên Thiên Chúa, và có thể lập đi lập lại nhiều lần cho đến khi chủ tế phân phát cho các đồng tế xong.

4) Rước Lễ.

Rước lễ nhằm mục đích kết hiệp với Chúa Giêsu để chính Người trở thành của ăn thức uống thiêng liêng cho chúng ta cho đến khi được kết hiệp vĩnh viễn ở trên trời. Tiếp rước và hiệp thông với Chúa Kitô là nhìn nhận “Người là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Rước Mình và Máu Chúa Giêsu là một việc làm hết sức quan trọng của đức tin.

“Thánh Lễ vừa là tưởng niệm hy tế để lưu truyền muôn đời hy tế thập giá, vừa là bàn tiệc thánh để thông hiệp Mình và Máu Chúa; hai ý nghĩa này đi đôi với nhau và không thể tách rời. Những cử hành hy tế Thánh Thể hướng đến việc các tín hữu kết hợp với Chúa Kitô nhờ rước lễ. Rước lễ là đón nhận chính Chúa Kitô, Đấng đã tự hiến vì chúng ta” (GLHTCG 1382)

– “Amen” là lời tuyên xưng đức tin: “Con tin thật đây là Mình Máu Chúa, con thờ lạy và cung kính muốn được rước Chúa vào lòng”. Đây không phải là một gợi ý nên thưa hay không thưa ‘Amen’, nhưng là yếu tố cần thiết để biểu lộ đức tin khi rước Chúa. Khi cho rước lễ, thánh Augustinô nói với mỗi tín hữu: “Đây là Mình Thánh Chúa Kitô. Con hãy trở nên như Đấng con đang tiếp rước !” Ngày nay được rút gọn lại: “Mình Thánh Chúa Kitô”, chúng ta thưa “Amen” với đức tin và sự dấn thân đặc biệt.

– Có hai cách thức rước lễ : rước lễ trên lưỡi và rước lễ trên tay, song người tín hữu không được từng người tiến đến bình đựng Mình Thánh tự cầm và đưa vào miệng, mà chỉ cầm và đưa vào miệng sau khi đã nhận từ thừa tác viên trao cho. Luật phụng vụ cũng buộc tín hữu phải rước Mình Thánh Chúa ngay, không được mang về chỗ hay về nhà, dù là để thờ lạy hay chiêm ngắm.

Đang khi vị tư tế Rước Lễ thì hát ca hiệp lễ (không hát thì đọc) biểu lộ niềm vui, đồng tâm hiệp nhất của cộng đòan. Ca hiệp lễ có thể được thay thế bằng một bài hát thích hợp đã được chuẩn nhận. Sau Rước Lễ sẽ im lặng để cám ơn Chúa, hoặc hát một bài ca tạ ơn (không được hát những bài về Đức Mẹ, các thánh … trong lúc này).

– Sự hiện diện thực sự (theo bản thể) của Chúa Giêsu trong hình bánh và rượu không tồn tại lâu trong người rước lễ, vì khi hình bánh và rượu tiêu tan đi thì sự hiện diện bí tích này không còn nữa. Sau một khoảnh khắc rất ngắn, khi hình bánh và rượu đã tiêu tan, chỉ còn lại sự hiện diện tâm linh của Chúa Giêsu nơi người chịu lễ.

5) Lời nguyện hiệp lễ .

Lời nguyện cuối cùng của thánh lễ này là tạ ơn vì hồng ân Rước Lễ và xin cho mầu nhiệm đã cử hành sinh hiệu quả trong mọi sinh hoạt thường ngày.

 

V. NGHI THỨC KẾT LỄ

Linh mục chủ sự khai mạc thánh lễ thì cũng kết thúc thánh lễ và nài xin phúc lành của Thiên Chúa xuống trên cộng đoàn. Có hai hình thức ban phép lành cuối lễ, đơn giản hoặc trọng thể. Thánh lễ chấm dứt nhưng cuộc đời Kitô hữu là một thánh lễ nối dài để họ làm chứng và dân thân phục vụ. Thánh lễ phải khởi sự trong chính đời sống vì đời sống người tín hữu cũng là một phần chất liệu của thánh lễ.

Vì thế, thánh lễ phải dẫn tới đời sống như nguồn mạch thánh hóa đời sống. Người Kitô hữu không có hai cuộc đời song song và biệt lập : một bên là đời tôn giáo cô đọng trong thánh lễ, một bên là đời trần tục bao trùm hết mọi họat động. Phải đem thánh lễ vào đời sống, và đem đời sống vào thánh lễ.

 

 

 

Mục 6 : CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ

 

“Trong khi chu toàn nhiệm vụ tư tế của Đức Kitô, Giáo Hội cử hành phụng vụ giờ kinh, nhờ đó Giáo Hội lắng nghe Thiên Chúa nói với dân Ngài, tưởng nhớ mầu nhiệm ơn cứu chuộc, ca tụng Ngài không ngớt bằng lời kinh và khẩn cầu phần rỗi cho cả thế giới” (GL 1173)

 

I. Ý NGHĨA

Giờ Kinh Phụng Vụ là lời cầu nguyện liên lỉ của toàn thể Hội Thánh để thánh hóa ngày giờ và toàn bộ sinh hoạt của con người.

Cầu nguyện là nhiệm vụ chính yếu của các Kitô hữu vì Hội Thánh làm theo lời Chúa Kitô dạy là “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Thật vậy, ngay từ thời các tông đồ, các tín hữu đã chuyên cần cầu nguyện vào những thời khắc nhất định. Sách Công Vụ kể các môn đệ họp nhau cầu nguyện vào giờ thứ ba (Cv 2,15), vị thủ lãnh các tông đồ “lên sân thượng cầu nguyện vào giờ thứ sáu” (10,9), ông Phêrô và ông Gioan lên đền thờ vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín (3,1), “vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Xila cầu nguyện ca tụng Chúa” (16,25). Dần dà với thời gian, “tại nhiều nơi đã sớm có thói quen dành những khoảng thời gian rõ rệt để cầu nguyện chung với nhau như vào giờ cuối ngày, khi trời tối và lúc lên đèn, hoặc giờ đầu ngày, lúc đêm tàn và ngày ló rạng” (KPV 1) để thánh hóa ngày sống của mình.

Những buổi cầu nguyện chung như thế dần dần tạo thành một chu kỳ giờ kinh nhất định, và đó là lời cầu nguyện của Hội Thánh cùng với Chúa Kitô và dâng lên Chúa Kitô.

 

II. CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ TRONG NGÀY

So với các cử hành phụng vụ khác, các Giờ Kinh Phụng Vụ có đặc điểm thánh hóa toàn bộ chu kỳ thời gian ngày và đêm, như lời thư gửi tín hữu Do Thái : “Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn luôn dùng lời ca tụng làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa” (Dt 13,15).

Các Giờ Kinh Phụng Vụ hiện nay được chia thành 5 giờ kinh khác nhau trong ngày, đó là kinh Sách, kinh Sáng, kinh Trưa, kinh Chiều và kinh Tối :

1 * Kinh Sách đề ra cho dân Chúa phương tiện phong phú nghiền ngẫm Kinh Thánh và những trang sách hay đẹp nhất của các nhà tu đức, cùng các Thánh Vịnh, thánh thi và lời nguyện.

2 * Kinh Sáng nhằm thánh hóa thời khắc ban mai khi bắt đầu một ngày mới để dâng lên Chúa những tác động đầu tiên của lòng trí chúng ta. Kinh Sáng được đọc vào lúc bình minh ló rạng để ca ngợi Đức Kitô Phục sinh là mặt trời công chính, là ánh sáng thật chiếu soi mọi người.

3 * Kinh Trưa là những giờ kinh nhỏ nằm giữa kinh Sáng và kinh Chiều, gồm các giờ kinh sau đây: kinh giờ ba (9 giờ sáng), kinh giờ sáu (12 giờ trưa) và kinh giờ chín (3 giờ chiều). Những ai sống đời chiêm niệm phải đọc chung với nhau ba giờ kinh Trưa này, còn những người khác được phép chọn một trong ba giờ kinh này vào những thời khắc phù hợp trong ngày.

4 * Kinh Chiều được cử hành vào lúc ban chiều khi ngày vừa xế bóng để tạ ơn những gì Chúa đã ban hoặc những việc lành chúng ta đã làm trong ngày. Kinh Chiều cũng nhắc nhớ đến công trình cứu chuộc của Chúa, và niềm hy vọng về ánh sáng không hề tàn lụi.

5 * Kinh Tối là “kinh cuối cùng trong ngày, đọc trước khi đi ngủ, dù đã quá nửa đêm”, để bày tỏ tâm tình thống hối và phó thác. Bóng đêm là hình ảnh của sự Ác và sự chết, thì kinh Tối là lời nguyện tin tưởng nài van, xin Chúa chúc lành cho một giấc ngủ bình an.

Trong 5 giờ kinh phụng vụ thì Kinh Sáng và Kinh Chiều là “hai giờ then chốt của kinh nguyện hằng ngày, nên phải coi như những giờ kinh chính yếu và vì thế không được bỏ qua” (KPV 37).

 

III. CẤU TRÚC CỬ HÀNH GIỜ KINH PHỤNG VỤ.

“Các giờ Kinh Phụng vụ được quy định theo những luật lệ riêng, đặc biệt gồm những yếu tố thường gặp trong các buổi cử hành trong Kitô giáo và được sắp xếp như sau : là bao giờ cũng có thánh thi mở đầu, rồi đến Thánh Vịnh, đọan một bài đọc Kinh Thánh dài hay ngắn và cuối cùng là các lời nguyện” (KPV 33).

Chúng ta thử lược qua cơ cấu cử hành Kinh Sáng và Kinh Chiều là hai giờ kinh quan trọng của ngày sống.

1) Phần giáo đầu :

– Giờ kinh Sáng thường được mở đầu bằng câu “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con – Cho con vang tiếng ngợi khen Ngài”. Nếu là Kinh Chiều thì bắt đầu bằng câu : “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con – Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ”.

– Tiếp đến là Thánh Vịnh 94 để kêu mời các tín hữu ca tụng Chúa và nghe tiếng Người để được an nghỉ với Chúa ; hoặc Thánh Vịnh 99, 66, 23. Câu điệp ca trước Thánh Vịnh 94 được thay đổi theo ngày phụng vụ để gợi lên ý nghĩa của ngày lễ. Kinh chiều không đọc Thánh Vịnh giáo đầu, song đọc Vinh tụng ca và kết thúc bằng câu Alleluia, trừ mùa Chay.

– Kế nữa là một bài thánh thi mang tính thi vị và biểu lộ đặc tính của mỗi giờ kinh và mỗi ngày lễ.

2) Phần Thánh Vịnh :

Trong các giờ kinh, Hội Thánh dùng các Thánh Vịnh là những bài thơ cổ xưa của Thánh Kinh Cựu Ước, cũng là Lời Chúa đã được Chúa Thánh Thần linh hứng, để giúp cầu nguyện. Những Thánh Vịnh này có sức nâng tâm hồn lên cùng Chúa, khơi động những tâm tình đạo đức thánh thiện, giúp tạ ơn khi gặp điều may mắn, niềm an ủi khi gặp nghịch cảnh. Tuy nhiên Thánh Vịnh cũng mới chỉ phác họa thời kỳ viên mãn nơi Chúa Kitô nên đôi khi cũng gặp những khó khăn khi các Thánh vịnh không trực tiếp nói với Chúa, hoặc những lời nguyền rủa quân thù… Nhưng Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng cho các tác giả Thánh Vịnh soạn ra những bài thơ ấy, lúc nào cũng ban ơn phù trợ giúp các tín hữu hát hay đọc các Thánh Vịnh.

Nếu muốn đọc Thánh Vịnh cho nghiêm chỉnh thì phải đọc mà nghiền ngẫm câu này tiếp nối câu kia, lòng lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng, vì Chúa Thánh Thần vẫn còn linh hứng cho tất cả những ai đạo đức sẵn sàng đón nhận ơn Người.

“Khi đọc Thánh Vịnh trong các Giờ Kinh Phụng Vụ thì ta không đọc nhân danh cá nhân, mà nhân danh Nhiệm Thể Chúa Kitô và có thể nói là đại diện cho chính Chúa Kitô nữa. Nếu nhớ như vậy, thì các khó khăn sẽ tan biến, khi thấy rằng những tâm tình sâu xa thầm kín của ta, lúc đọc Thánh Vịnh không trùng hợp với những tâm tình diễn tả trong Thánh Vịnh ; thí dụ, đang âu sầu, ảo não, lại gặp một Thánh Vịnh vui tươi, đang phấn khởi, lại gặp một Thánh Vịnh âu sầu” (KPV 108).

“Kinh Sáng gồm một Thánh Vịnh thích hợp với buổi sáng, rồi một thánh ca trích trong sách Cựu Ước, và một Thánh Vịnh nữa, thuộc loại ca ngợi, theo truyền thống của Hội Thánh. Kinh Chiều gồm hai Thánh Vịnh (hay hai đoạn, nếu Thánh Vịnh quá dài) thích hợp với bưổi chiều và thích hợp với việc cử hành chung với giáo dân, và một thánh ca lấy trong các thánh thư hoặc sách Khải Huyền” (KPV 43).

3) Phần Lời Chúa :

– Đọc Thánh vịnh xong thì đọc một đoạn Sách Thánh ngắn.

“Bài đọc vắn được chọn theo ngày trong tuần, theo mùa hay theo ngày lễ. Phải đọc và nghe bài này như đích thực là một bản công bố Lời Chúa” (KPV 45).

– Để đáp lại Lời Chúa, thường có câu xướng đáp ngắn, để Lời Chúa ăn sâu hơn vào tâm trí. Sau đó long trọng (đứng và làm dấu thánh giá) đọc thánh ca Tin Mừng với câu điệp ca riêng theo ngày theo mùa. Buổi sáng đọc thánh ca “Benedictus” (Chúc tụng Đức Chúa của ông Giacaria), buổi chiều đọc thánh ca “Magnificat” (Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa của Đức Maria). Đây là những thánh ca vẫn được Hội Thánh từ ngàn xưa ưa thích.

– Khi cử hành các giờ kinh Phụng Vụ cũng nên có những khoảng thời gian thinh lặng vào những lúc thích hợp, ví dụ : sau mỗi Thánh Vịnh, sau khi đã lập lại các điệp ca, sau các bài đọc Sách Thánh, trước hay sau câu xướng đáp.

Thông thường, sau khi đọc Sách Thánh cũng có lời nguyện để tăng hiệu lực cho bài đọc và nhờ bài đọc mà hiểu lời nguyện rõ hơn và sốt sắng hơn.

3) Phần lời cầu :

Sau thánh ca Tin Mừng là các lời cầu : buổi sáng là để dâng ngày và công việc cho Chúa, buổi chiều là để xin ơn, và lời nguyện cuối cùng bao giờ cũng dành để cầu nguyện cho những người đã qua đời.

Kế đến là kinh Lạy Cha và tiếp ngay lời nguyện kết thúc cùng với lời ban phép lành và giải tán.

 

IV. LUẬT BUỘC CỬ HÀNH CGKPV

“Hội Thánh đã đặc biệt ủy nhiệm cho những người có chức thánh phải cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, nên dù khi không có giáo dân, thì ai nấy đều phải chu toàn nhiệm vụ ấy, dĩ nhiên là với những sự thích nghi cần thiết. Quả vậy, Hội Thánh ủy nhiệm cho họ đọc các Giờ Kinh Phụng Vụ, để nhiệm vụ cầu nguyện của Đức Kitô được tiếp nối không ngừng trong Hội Thánh” (KPV 28).

Những người sau đây theo Giáo Luật (1174 $1) buộc phải đọc các giờ Kinh Phụng Vụ, không những đọc đầy đủ các giờ kinh mà còn phải cố gắng đọc cho phù hợp với giờ thật trong ngày, được chừng nào hay chừng đó (GL 1175) :

Đó là giám mục, linh mục, phó tế (phó tế vĩnh viễn cũng nên đọc mỗi ngày ít là một phần các Giờ Kinh Phụng Vụ), các kinh sĩ hội nhà thờ chính tòa (phải đọc trong cung thánh), những cộng đoàn tu sĩ có luật buộc đọc các Giờ Kinh Phụng Vụ (vd: các Đan viện), những cộng đoàn tu sĩ khác cũng nên tùy nghi đọc một vài giờ kinh phụng vụ (vd: Mến Thánh Giá), và cả anh chị em giáo dân cũng được khuyến khích nên đọc một vài giờ kinh phụng vụ, như Kinh Sáng và Kinh Chiều (vd: Huynh đoàn giáo dân Đaminh).

 

TÓM LƯỢC :

1* H. Các Giờ Kinh Phụng Vụ là gì ?

-T. Các Giờ Kinh Phụng Vụ là những lời cầu nguyện liên lỉ của toàn thể Hội Thánh để thánh hóa ngày giờ và toàn bộ sinh họat của con người.

2* H. Diễn tiến thông thường của một Giờ Kinh Phụng Vụ được cử hành như thế nào ?

-T. Diễn tiến thông thường một Giờ Kinh Phụng Vụ được cử hành với phần giáo đầu, rồi đến một thánh thi, các Thánh Vịnh, một đoạn Sách Thánh, câu xướng đáp, thánh ca Tin Mừng, các lời cầu nguyện và cuối cùng là phép lành giải tán.

3* H. Những ai buộc phải cử hành các Giờ Kinh Phụng Vụ ?

-T. Những người có chức thánh và các cộng đoàn tu sĩ có luật buộc đọc phải chu toàn các Giờ Kinh Phụng Vụ ; còn giáo dân không bắt buộc nhưng cũng được Hội Thánh mời gọi đọc một vài giờ Kinh Phụng Vụ.

 

 

Phần II

PHẦN BỔ SUNG GIÁO TRÌNH RIÊNG

VỀ PHỤNG VỤ THÁNH LỄ VÀ KINH PHỤNG VỤ

 

A.  PHỤNG VỤ THÁNH LỄ.

 

Mục I: GIẢI ĐÁP CÁC CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ [3]

 

Giáo Hội luôn nhấn mạnh tầm quan trọng và sự cao quý của thánh lễ. Quy chế tổng quát của Sách Lễ Rôma mở đầu bằng câu sau đây: “Việc cử hành thánh lễ, với tích cách là hành động của Chúa Kitô và của dân Thiên Chúa, được tổ chức theo phẩm trật, là trung tâm toàn bộ đời sống Kitô giáo, đối với Hội Thánh toàn cầu, cũng như Hội Thánh địa phương, và đối với từng tín hữu” (số 1). Giáo Hội được dưỡng nuôi và sống bởi Lời Chúa và Thánh Thể. Vì thế Giáo Hội mời gọi tất cả chúng ta cố gắng tìm hiểu, khám phá ra hoặc khám phá lại thánh lễ, là hành vi trung tâm của đời sống Kitô giáo chúng ta. Chúng ta có thể tìm hiểu ý nghĩa của thánh lễ dưới ba khía cạnh: Kinh Thánh, thần học và lịch sử. Ngoài ra, có thể thêm khía cạnh thứ tư mà chúng ta sắp sử dụng: đó là nghi thức, nghĩa là nghiên cứu các nghi thức trong thánh lễ để tìm hiểu và khám phá ra ý nghĩa đích thật của thánh lễ.

Chắc hẳn, đã có lần bạn đặt câu hỏi về ý nghĩa của một vài nghi thức phụng vụ khi bạn tham dự thánh lễ: dấu thánh giá, cộng đoàn đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng (Phúc Âm), nghi thức bẻ bánh, v.v…

Thật ra, mỗi một nghi thức đều ẩn chứa biết bao ý nghĩa phong phú. Mỗi hành vi phụng vụ đều có ý nghĩa thần học cả.

Tài liệu nầy được đưa lên mạng lưới điện toán toàn cầu nhằm mục đích giải thích những nghi thức quan trọng của thánh lễ, được trình bày theo thứ tự thời gian trong thánh lễ, và cho một vài giải thích liên quan đến thánh lễ, cũng như trả lời một số câu hỏi mà bạn thường đăït ra.

Những câu trích dẫn trong thánh lễ, của Sách Lễ Rôma, lấy theo bản dịch 1992 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.

 

1. Thánh lễ bắt nguồn từ đâu?

Trong Giáo Hội Công Giáo, với phong trào canh tân phụng vụ khởi phát ít lâu trước Công Đồng Vaticanô II (1962-1965), được thảo luận rộng rãi trong Công Đồng, và dần dần được áp dụng với những thay đổi mà ta đã thấy khá quen thuộc như hiện nay, người ta càng ngày càng ý thức sâu sắc hơn về ý nghĩa đích thật của thánh lễ như là hành vi cảm tạ, ngợi khen và hân hoan. Thật vậy, thánh lễ là hiến tế tạ ơn. Cách gọi này đã xuất hiện từ lâu và gợi lên lịch sử của thánh lễ. Thánh lễ bắt nguồn từ một nghi thức của Do-thái, nghi thức vọng lễ Vượt Qua, trong đó mỗi gia đình người Do-thái dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã thương giải phóng dân tộc của họ thoát khỏi ách nô lệ của Ai-cập, cảm tạ Người vì những cuộc giải cứu khác về mặt thiêng liêng mà cuộc giải phóng đầu tiên này là dấu chỉ. Nghi thức Vượt Qua cũng loan báo Đấng Cứu Tinh sẽ đến, là Đấng Thiên sai sẽ chiến thắng sự chết và tội lỗi, và sẽ đưa Lịch Sử thánh đến sự hoàn tất.

Diễn tiến của nghi thức này cũng chính là diễn tiến mà chúng ta gặp trong thánh lễ hôm nay: nhắc lại những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho dân Người, tiếng hát và lời tạ ơn, chúc tụng và chia sẻ bánh, rượu.

Bạn đừng ngạc nhiên về những điểm giống nhau của thánh lễ với nghi thức Vượt Qua của người Do-thái: bởi trong chính một buổi cử hành lễ Vượt Qua, Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể. Thay vì chỉ chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho bánh, rượu và mọi điều hạnh phúc, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và nói: “Này là Mình Thầy, chịu phó nộp vì các con: các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy”. Cũng vậy sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là Giao Ước mới trong máu Thầy; mỗi lần các con uống, các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cor 11, 23-25).

Như vậy, chúng ta thấy rõ bữa Tiệc Ly bắt nguồn từø một nghi thức tạ ơn của người Do-thái được cử hành để tưởng nhớ cuộc giải phóng của dân riêng Thiên Chúa. Nhưng dù vẫn giữ lại ý nghĩa của nghi thức này, Chúa Kitô lại làm phong phú thêm bằng một ý nghĩa mới mang tầm vóc hoàn vũ. Chính Người, là Đấng Cứu Tinh mà mọi người mong đợi, đang thực hiện cuộc giải phóng dân mới của Chúa, tức là Giáo Hội, được cứu độ bởi Thánh Giá và sự phục sinh của Người. Từ bữa Tiệc Ly đó, các Kitô hữu dâng lên Chúa Cha, mỗi ngày và mọi nơi, của lễ hy sinh và tạ ơn của chính Chúa Kitô.

 

2. Và diễn tiến lịch sử hình thành thánh lễ ra sao?

Các Tông Đồ và giáo dân tiên khởi đã cử hành nghi thức “bẻ bánh” (danh từ các tín hữu thời ấy dùng để nói đến thánh lễ): “Hằng ngày, họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền Thờ, bẻ bánh ở tư gia và ăn uống đơn sơ, vui vẻ” (Công Vụ Tông Đồ 2, 46). Họ dùng bữa, với nghi thức “bẻ bánh”, nay ở nhà người này, mai tại nhà người kia. Cộng đoàn thời ấy được xem như là một “đền thờ sống động”.

Rất sớm, người ta đã thêm vào trong bữa ăn này những bài thánh ca, kinh nguyện và những bài đọc Kinh Thánh.

Chỉ từ thế kỷ thứ IV, người ta mới nói đến “Lễ Misa” (xem chữ này ở phần cuối: Giải thích một số từ phụng vụ). Vào thời ấy, sau khi hoàng đế Constantinô trở lại đạo công giáo, người ta thấy xuất hiện những cộng đoàn đông đảo Kitô hữu. Các nghi lễ phụng vụ chịu ảnh hưởng các nghi thức và lễ hội của người Rôma. Y phục được dùng trong các buổi lễ thời đó là nguồn gốc của tu phục, áo lễ giáo sĩ mà bạn thấy hiện nay. Dần dần, người ta không còn ý thức về ý nghĩa của cộng đoàn và của bữa ăn mà trong đó Chúa Kitô chính là lương thực nuôi sống nhân loại. Người ta rước lễ ít hơn. Vài thế kỷ sau đó thì mai một thêm ý thức về bữa ăn và về tâm tình tham dự vào hy lễ. Thánh lễ trở thành một buổi trình diễn có tính cách thánh thiêng.

Vào thế kỷ XII, việc tôn sùng đối với sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô nơi bánh thánh đưa đến việc trưng bày bánh thánh trên bàn thờ (Chầu Thánh Thể). Việc linh mục giơ cao bánh đã được truyền phép xuất phát từ việc các tín hữu ước mong được “nhìn” bánh thánh (khoảng từ năm 1200). Việc nâng cao chén thánh được thêm vào sau đó.

Vào thế kỷ XIII và XIV, người ta thấy xuất hiện những cuộc kiệu rước Thánh Thể đầu tiên. Tín hữu “ngắm nhìn” Thánh Thể nhưng ít khi rước lễ. Phải chờ đến triều đại của Đức Giáo Hoàng Piô X, họ mới ý thức lại việc rước lễ “thường xuyên” (1905) và việc cho trẻ em rước lễ (1910).

Trong thánh lễ, các tín hữu rất thụ động. Năm 1947, Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố thông điệp “Mediator Dei” (Đấng trung gian của Thiên Chúa) nhằm canh tân phụng vụ dưới mọi phương diện, trong đó có việc mời gọi cộng đoàn đối đáp với linh mục chủ tế.

Với Công Đồng Vaticanô II, người ta tìm lại được ý nghĩa sâu xa của thánh lễ, được tất cảù mọi người cùng cử hành dưới sự chủ tọa của linh mục, là bữa tiệc của Thiên Chúa và là nghi thức bẻ bánh. Cách đây không lâu, lòng tôn sùng Thánh Thể vẫn còn được xem như là việc đạo đức cá nhân, nay thì thánh lễ lại trở nên hành vi tạ ơn của toàn dân Chúa.

3. Các phần trong thánh lễ như thế nào?

Thánh lễ gồm hai phần:

° Phụng vụ Lời Chúa.

° Phụng vụ Thánh Thể.

Hai phần này liên kết chặt chẽ với nhau làm thành một hành vi phụng tự duy nhất. Thật vậy, thánh lễ là bàn tiệc gồm Lời Chúa và Thánh Thể, nơi đây các tín hữu được giáo huấn và bổ dưỡng.

Các nghi thức trước phần phụng vụ Lời Chúa (gồm bài ca nhập lễ, lời chào, nghi thức sám hối, kinh Thương xót, kinh Vinh Danh và lời nguyện nhập lễ) đều có tính cách mở đầu, dẫn nhập và chuẩn bị.

Các nghi thức vừa kể trên nhằm giúp các tín hữu hiệp thông với nhau, chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa và cử hành thánh lễ cho xứng đáng.

A. Phụng vụ Lời Chúa

Phần chính yếu của phụng vụ Lời Chúa là các bài đọc trích từ Kinh Thánh, với những bài thánh ca kèm theo. Còn bài giảng, lời tuyên xưng đức tin (kinh Tin Kính) và lời nguyện giáo dân, cũng gọi là lời nguyện tín hữu, có mục đích khai triển và kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa.

B. Phụng vụ Thánh Thể

– Dâng lễ: chuẩn bị lễ vật mà trong giây lát nữa sẽ trở thành Mình và Máu Chúa Kitô.

– Kinh Tạ Ơn: là trung tâm và là đỉnh điểm của thánh lễ (chúng ta sẽ khai triển ở phần sau).

– Những nghi thức hiệp lễ: kinh Lạy Cha, chúc bình an, bẻ bánh, kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, rước lễ và lời nguyện hiệp lễ.

Sau phần Phụng vụ Thánh Thể là nghi thức kết lễ: chào và ban phép lành, và giải tán cộng đoàn giáo dân.

 

4. Linh mục đóng vai trò gì trong thánh lễ?

° Giám mục hoặc linh mục chủ tọa thánh lễ là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người. Điều đó quả quyết rằng, lúc những người đã chịu phép Rửa tụ họp nhau lại, đó là chính Chúa Kitô qui tụ và phán dạy họ, chính Người ban Mình của Người và xây dựng Giáo Hội.

Nếu có nhiều linh mục đồng tế, thì chỉ có một vị chủ tế từ đầu đến cuối thánh lễ. Vị chủ tế đó biểu tượng cho sự hiện diện của chính Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người.

° Khi đọc những lời nguyện, linh mục chủ tế luôn nhân danh cộng đoàn (sẽ đề cập chi tiết hơn ở những câu hỏi sau).

 

5. Tại sao thánh lễ luôn được cử hành giống nhau, đọc hoài những lời bất biến?

Bởi vì Chúa Giêsu đã phán dạy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19; 1 Cor 11, 24-25). Do đó, chúng ta thực hiện những gì mà Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta phải làm để tưởng nhớ đến Người. Từ gần 2000 năm qua, chỉ có một vài thay đổi nhỏ trong thể thức diễn tả mà thôi. Và cũng gần 2000 năm qua, người Kitô hữu không ngừng tuyên đọc: “Trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh… cầm lấy chén rượu…” và họ cùng làm một cách thức như thế.

Trong thánh lễ, chúng ta không cử hành bữa Tiệc Ly, nhưng là cử hành sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Để thực hiện điều đó, chúng ta dựa trên cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc Ly. Có tất cả bốn cử chỉ: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ”. Toàn phần phụng vụ Thánh Thể tóm gọn trong đó:

° Chúa Giêsu cầm lấy bánh (và rượu): đây là phần Dâng lễ.

° tạ ơn: kinh Tạ Ơn.

° bẻ ra: nghi thức bẻ bánh.

° và trao cho cho các môn đệ: rước lễ.

Sự “tưởng nhớ” của thánh lễ không chỉ là một kỷ niệm, nhưng là tác động bí tích, qua đó, điều Chúa Kitô đã thực hiện một lần duy nhất trong quá khứ được ban cho chúng ta thực sự trong hiện tại của đức tin Kitô giáo.

Về vấn đề tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao không cử hành thánh lễ ngày thứ năm, vì Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể ngày thứ năm Tuần Thánh?

Chúa nhật là ngày ưu tiên để cử hành thánh lễ, vì đó là ngày Chúa Phục Sinh. Và thánh lễ chỉ có thể cử hành khi Chúa Kitô đã sống lại. Thánh Phaolô có nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì lời giảng dạy của chúng tôi là hư vô và đức tin của anh em là mơ hồ” (1 Cor 15, 14). Nói cách khác, nếu Chúa Kitô không sống lại, thì không có đức tin, không có Giáo Hội và cũng không có các bí tích.

Như thế, cử hành thánh lễ ngày Chúa nhật có một ý nghĩa thần học rất quan trọng. Thánh lễ không phải là sự lặp lại của bữa Tiệc Ly. Cử hành thánh lễ ngày Chúa nhật xác định rằng đó là sự tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Chính trong buổi tối Phục sinh mà hai môn đệ, trong nhà trọ tại làng Emmau, đã nhận ra Chúa Sống Lại khi Người bẻ bánh (Lc 24, 13-35).

Sau cùng, Chúa nhật là ngày toàn Dân Chúa dâng lời tạ ơn, tán tụng lên Thiên Chúa, cảm tạ Người đã chiến thắng sự chết.

 

6. Tại sao linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép?

° Áo dài trắng (cũng gọi là áo Alba) là loại áo chùng dài màu trắng với hai ống tay rộng, được mặc bên trong.

° Dây các phép (cũng gọi là dây Stola) là một dải vải dài, thường cùng màu với áo lễ. Giám mục và linh mục mang dây các phép chung quanh cổ và rủ xuống phía trước, còn thày phó tế thì đeo chéo vai. Cách đeo dây các phép cho phép ta dễ nhận ra phẩm trật của các chức thánh (giám mục, linh mục, phó tế).

° Áo lễ, rất rộng phủ ngoài áo dài trắng. Màu áo thì tùy theo mùa phụng vụ hoặc theo ngày lễ: đỏ, xanh, tím, trắng (hoặc vàng).

Phó tế chỉ mặc áo trắng và dây các phép (chéo vai).

Trong Hội Thánh là Nhiệm Thể Chúa Kitô, các chi thể không thi hành cùng một chức vụ như nhau. Khi thi hành việc phụng tự, sự khác biệt về chức vụ được biểu lộ ra bề ngoài nhờ sự khác biệt về phẩm phục. Do đó phẩm phục là dấu chỉ của mọi thừa tác viên. Hơn nữa, phẩm phục thánh làm tăng vẻ trang trọng của chính nghi lễ phụng vụ.

Nếu linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép trong thánh lễ, chính chỉ vì muốn cho mọi người biết rằng linh mục nói và hành động không phải với danh nghĩa cá nhân của mình, nhưng là nhân danh Đức Giêsu Kitô.

 

7. Đâu là ý nghĩa của màu sắc các phẩm phục phụng vụ?

Mỗi màu sắc mang một ý nghĩa:

Màu tím, màu của sự ăn năn, thống hối và của sự mong đợi, được dùng trong Mùa Chay và Mùa Vọng. Người ta cũng dùng màu tím trong thánh lễ và các nghi thức phụng vụ cầu cho những kẻ đã qua đời (trước Công Đồng Vaticanô II, dùng màu đen).

Màu đỏ là màu máu và lửa, được dùng trong ngày Chúa nhật Thương khó (lễ Lá), thứ Sáu Tuần Thánh, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, trong các cử hành cuộc thương khó của Chúa, trong lễ kính các thánh Tông đồ, các thánh sử Tin Mừng và trong các lễ kính các thánh tử đạo.

Màu trắng (có thể được thay thế bằng màu vàng) gợi lên sự trong sạch, tinh tuyền, nhất là vinh quang của Thiên Chúa, được dành cho các nghi thức phụng vụ và các thánh lễ Mùa Phục Sinh và Mùa Giáng Sinh; cũng dùng trong các lễ kính, lễ nhớ về Chúa không phải là lễ kính nhớ cuộc thương khó của Người; các lễ kính Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh không phải là thánh tử đạo. Màu trắng còn diễn đạt sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như sự phục sinh của chúng ta sau này. Nơi bàn tiệc thiên quốc những người được tuyển chọn đều mặc y phục trắng toát (xem sách Khải Huyền 7, 9).

Màu xanh lá cây được dùng trong các thánh lễ trong Mùa Thường Niên hoặc Quanh Năm. Màu xanh lá cây là màu của niềm hy vọng và của sự sống. Khi thấy vị linh mục tiến lên bàn thờ trong phẩm phục màu xanh, điều đó cho chúng ta nghĩ rằng chúng ta là những người có niềm hy vọng lớn lao, là đoàn lữ hành đang được Chúa Kitô dẫn đến những cánh đồng cỏ xanh tươi của miền đất hứa…

Màu hồng được sử dụng hai lần trong năm (Chúa nhật III Mùa Vọng và Chúa nhật IV Mùa Chay) để mời gọi tín hữu hưởng niềm vui thầm kín và an lành trong niềm trông đợi Đấng Cứu Tinh hoặc trong sự chuẩn bị đón mừng Chúa Kitô phục sinh.

Tại Việt Nam, màu hồng thường được dùng trong thánh lễ hôn phối, trong bầu khí vui tươi, để diễn đạt tình yêu nam nữ, là hình ảnh của tình yêu Chúa Kitô với Giáo Hội của Người.

 

8. Tại sao khi bước vào nhà thờ, người ta làm dấu thánh giá với nước thánh?

Bình nước thánh đặt nơi cửa nhà thờ mời gọi người tín hữu lấy tay chấm nước thánh và làm dấu thánh giá để nhắc họ nước của bí tích Thánh Tẩy.

Trong đêm Phục sinh, nghi thức rảy nước thánh đi kèm với việc cộng đoàn lặp lại lời tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.

Nghi thức an táng cũng dùng nước thánh để nhắc nhở rằng bí tích Thánh Tẩy mở đường và dẫn đến đời sống vĩnh cửu: những người tham dự được mời rảy nước thánh để tỏ cử chỉ thân thiện và niềm hy vọng.

 

9. Tại sao thánh lễ thường bắt đầu bằng một bài hát?

Ca hát là cách diễn tả thông thường của bất cứ lễ hội nào. Và việc gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn là một lễ hội

Bài hát nhập lễ nhằm xóa tan sự lạnh lùng của mỗi người chúng ta và kết hợp chúng ta thành một cộng đoàn tình thương và sống động.

Hát là dấu chỉ niềm hân hoan trong tâm hồn. Chúng ta hát để diễn tả sự hiệp nhất của cộng đoàn tham dự và để nói lên rằng chúng ta vui sướng được gặp lại nhau, như Thánh vịnh 132 đã biểu lộ:

“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,

Anh em được sống sum vầy bên nhau!”

Niềm vui này phải được diễn tả cụ thể trong nghi thức đầu tiên của thánh lễ là sự tập họp của đoàn dân Chúa.

 

10. Tại sao linh mục cúi hôn bàn thờ?

Bàn thờ là nơi quan trọng nhất của nhà thờ, là trung tâm điểm của phụng vụ Thánh Thể.

Sở dĩ bàn thờ được coi là quan trọng, vì đó là nơi Thiên Chúa và con người gặp gỡ, liên kết với nhau, là nơi mà Thiên Chúa đến với loài người và loài người đến với Thiên Chúa. Bàn thờ cũng tượng trưng cho Chúa Kitô, mối giao tiếp tuyệt hảo của sự gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa, bởi vì trong ngôi vị của Chúa Kitô, vừa có bản tính Thiên Chúa, vừa có bản tính loài người.

Hơn nữa, Tân Ước xác quyết rằng Chúa Giêsu là “viên đá góc tường” dựa trên đó tất cả được xây dựng (Ep 2, 20). Do đó, bàn thờ bằng đá hoặc chứa đựng một viên đá trên đó biểu tượng cho Chúa Kitô.

Đối với người Do-thái, bàn thờ vừa là nơi tế lễ, vừa là chỗ thiết tiệc, là nơi mà con cái Thiên Chúa được nuôi dưỡng và giải khát.

Nếu bàn thờ có ý nghĩa phong phú như thế, bạn đừng lấy làm lạ khi thấy vị linh mục cúi hôn bàn thờ lúc bắt đầu thánh lễ. Đó là cử chỉ tôn kính đối với Chúa Kitô và đối với hy lễ của Người.

 

11. Dấu thánh giá mang ý nghĩa gì?

“Nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Amen”. Thánh lễ bắt đầu bằng dấu thánh giá, là một trong những dấu hiệu Kitô giáo cổ xưa nhất, và là dấu hiệu tuyệt hảo của người Kitô hữu.

Khi làm dấu thánh giá, chúng ta nhận biết mình thuộc về Chúa Kitô, bày tỏ niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô đã chết trên thánh giá vì chúng ta, chúng ta nói lên lòng ước muốn đón nhận sự phong phú khôn lường của thánh giá và ước muốn liên kết đời sống chúng ta với đời sống của Chúa Kitô chết trên thánh giá. Vậy, thánh giá quả là dấu chỉ sự cứu độ, sự cứu chuộc và sự phục sinh. Dấu thánh giá còn nhắc chúng ta về bí tích Thánh Tẩy của mình, bởi chúng ta đã được rửa tội “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

Dấu thánh giá là biểu thức của chính đức tin Kitô giáo, đó là sự hiện hữu của Thiên Chúa tình yêu được mạc khải bởi đời sống của Chúa Kitô. Do đó người ta hiểu tại sao các Kitô hữu thường làm dấu thánh giá và luôn luôn bắt đầu một nghi thức phụng vụ bằng dấu thánh giá.

 

12. Tại sao, sau Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế lại đứng đối diện với cộng đoàn?

Đây là một trong những cải cách phụng vụ thấy rõ nhất của Công Đồng Vaticanô II.

Thời thượng cổ, hầu hết các nhà thờ được xây hướng về phía đông, hướng mặt trời mọc, nơi tượng trưng cho sự Sống Lại. Hướng về phía đông khi cầu nguyện là một cách muốn cho hiểu rằng cộng đoàn cùng với linh mục chủ tế ngỏ lời với Chúa Kitô phục sinh.

Chúng ta cũng biết rằng người Do-thái hướng về thành Giêrusalem khi cầu nguyện, và người hồi giáo hướng về thành La Mecque.

Sau Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế không quay lưng vềà phía cộng đoàn như theo truyền thống nữa, mà quay mặt về cộng đoàn trong suốt thánh lễ. Thông thường, chúng ta đối diện với người nào đó khi nói chuyện. Do đó thật là hợp lý khi linh mục chủ tế hướng về cộng đoàn: chào đầu lễ, bài giảng… Khi linh mục công bố Tin Mừng, chính là Chúa Kitô nói với dân Người.

Nhưng khi cầu nguyện thì sao ? Khi cầu nguyện, tất cả cùng thưa với Chúa. Do đó chúng ta sẽ khó hiểu hơn khi thấy linh mục đứng đối diện với cộng đoàn. Thật ra, bàn thờ được đặt giữa linh mục và cộng đoàn. Sự sắp đặt vị trí như thế có nghĩa là: Chúa không ở trước mặt chúng ta, nhưng ở giữa chúng ta, như lời hứa của Chúa Kitô: “Ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ.” (Mt 18, 20). Thánh Phaolô có nói: “Đức Kitô ở giữa anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang !” (Col 1, 27).

 

13. Các bài đọc được chọn lựa như thế nào?

° Trong thánh lễ ngày Chúa nhật, có ba bài đọc: bài đọc I trích từ Cựu Ước (trừ Mùa Phục Sinh, vì từ Chúa nhật Phục Sinh cho đến Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta nghe đọc sách Tông Đồ Công Vụ), bài đọc II thường là một đoạn thư của thánh Phaolô hay của một Tông Đồ khác, còn bài đọc III thì luôn luôn là một đoạn Tin Mừng (Phúc Âm).

Các bài đọc Cựu Ước kể cho chúng ta nghe công trình của Thiên Chúa trước khi Chúa Kitô giáng trần. Bài Tin Mừng thuật lại các việc làm, cử chỉ và giáo huấn của Chúa Giêsu. Còn bài đọc II cho chúng ta biết tư tưởng và đời sống của các Kitô hữu tiên khởi.

Trong thánh lễ các ngày Chúa nhật Mùa Vọng, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, cũng như các ngày lễ trọng (Giáng Sinh, Chúa Thánh Thần hiện xuống…), cả ba bài đọc đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về tư tưởng. Một sứ điệp được công bố dưới ba khía cạnh khác nhau.

Còn vào các ngày Chúa nhật khác mà ta gọi là Chúa nhật Thường Niên hay Quanh Năm, bài đọc I được chọn hợp với ý nghĩa của bài Tin Mừng. Mục đích để làm nổi bật sự hợp nhất của Cựu Ước và Tân Ước, của lịch sử cứu độ mà Chúa Kitô là trung tâm. Nếu có liên hệ tư tưởng với bài đọc II, thì chỉ là tình cờ mà thôi, vì bài đọc II theo một chu kỳ riêng biệt.

Các bài đọc được sắp xếp không theo thứ tự thời gian, nhưng theo ý nghĩa thần học và có tính cách sư phạm: trước tiên chúng ta nghe chứng từ của các bậc tiền bối trước thời Chúa Giêsu (bài đọc Cựu Ước); kế tiếp, chứng từ của các vị đã tiếp nhận sự mạc khải của Chúa Kitô phục sinh (bài đọc Tân Ước); và sau cùng là lời của chính Chúa Kitô (Tin Mừng).

Trước Công Đồng Vaticanô II, chỉ có hai bài đọc và được lặp lại mỗi năm. Bây giờ, trong mỗi thánh lễ Chúa nhật, chúng ta có ba bài đọc, được đọc lại sau một chu kỳ ba năm có tên năm A, năm B, năm C. Năm A đọc Tin Mừng theo thánh Mát-thêu; năm B, thánh Mác-cô; năm C, thánh Lu-ca; còn Tin Mừng theo thánh Gio-an được đọc mỗi năm trong Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Như vậy, Giáo Hội cho đọc nhiều bài Thánh Kinh hơn trước rất nhiều. Chúng ta có thể nghe gần như trọn vẹn sách Tin Mừng.

° Thánh lễ trong tuần chỉ có hai bài đọc: bài đọc I trích từ Cựu Ước hoặc Tân Ước (trừ Tin Mừng), bài đọc II luôn là một đoạn Tin Mừng, được phân phối như sau: trong các tuần 1-9 Quanh Năm, đọc Tin Mừng theo thánh Mác-cô; trong các tuần 10-21, theo thánh Mát-thêu; và trong các tuần 22-34, theo thánh Lu-ca. Trong các Mùa khác, bài Tin Mừng được chọn theo tính chất đặc biệt của mỗi Mùa.

Trong Mùa Thường Niên, bài đọc I có chu kỳ hai năm (năm chẵn và năm lẻ), bài đọc II (Tin Mừng) có chu kỳ một năm. Các Mùa khác, bài đọc I và II đều có chu kỳ một năm.

 

14. Bài Thánh vịnh có vai trò gì?

Bài Thánh vịnh (hoặc bài thánh ca trích trong Kinh Thánh) được chọn theo ý tưởng của bài đọc I. Đó là sự đáp lại của cộng đoàn đối với Lời Chúa mà cộng đoàn vừa nghe (vì thế có tên là Đáp ca hay Thánh vịnh đáp ca), như là lời đáp lại với chính Thiên Chúa vừa phán dạy trong bài đọc I.

Thông thường, Thánh vịnh, và đặc biệt là câu đáp của Thánh vịnh, lặp lại một lời, một ý nào đó vừa được công bố. Thí dụ, nếu bài đọc I mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và thực hành những giáo huấn của Người, thì hầu như như câu đáp của Thánh vịnh sẽ là: “Lạy Chúa, Lời Ngài là chân lý, và luật Ngài là sự giải thoát cho chúng con”.

 

15. Tại sao phải đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng?

Trong thánh lễ, cộng đoàn ngồi khi nghe đọc hai bài Sách Thánh đầu tiên cũng như khi hát hoặc đọc Thánh vịnh.

Nhưng chúng ta đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng, vì là bài đọc quan trọng hơn cả.

Các bài Tin Mừng chứa đựng chính lời của Chúa Giêsu. Khi linh mục đọc Tin Mừng trong thánh lễ, chính Chúa Kitô đang hiện diện và nói với chúng ta. Tin Mừng thuật lại các việc và hành động của Chúa Giêsu. Do đó, khi nghe công bố Tin Mừng, chúng ta đứng lên để tỏ lòng tôn kính Chúa Giêsu, tôn kính những giáo huấn của Người, cũng như mọi việc Người làm.

 

16. Tại sao phải làm tới ba dấu thánh giá trước khi nghe Tin Mừng?

Khi linh mục loan báo sẽ đọc bài Tin Mừng nào đó (Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô, thánh Lu-ca hay thánh Gio-an), chúng ta tuần tự làm một dấu thánh giá trên trán, một trên môi miệng và một trên ngực. Tập tục này có từ thế kỷ thứ XI và mang nhiều ý nghĩa phong phú.

Làm ba dấu thánh giá như thế để xin Chúa ban ơn và chúc lành cho chúng ta. Qua dấu thánh giá trên trán, trên môi và trên ngực, chúng ta cầu xin cho lời Tin Mừng, mà chúng ta sắp nghe, thấm nhập trọn vẹn trong con người, bám rễ sâu trong trí khôn và trong tâm hồn của chúng ta. Chúng ta cũng xin cho trí tuệ của mình được soi sáng để thông hiểu Lời Chúa và cho tâm hồn được sưởi ấm để đón nhận Tin Mừng.

Khi làm ba dấu thánh giá, chúng ta có thể đọc thầm lời nguyện như sau: “Xin Lời Chúa mở rộng lòng trí con, cho miệng lưỡi con biết công bố Lời Ngài, cho con biết giữ Lời Ngài trong tâm hồn con và thực thi Lời Ngài”.

 

17. Tại sao đọc kinh Tin Kính?

Trong thánh lễ, một trong những giây phút liên hệ chặt chẽ với Lời Chúa, đó là lúc đọc kinh Tin Kính hay lời tuyên xưng đức tin. Kinh Tin Kính được đọc trong các lễ chúa nhật và lễ trọng như là sự chấp nhận và đáp lại Lời Chúa mà giáo dân đã nghe trong các bài đọc và bài giảng.

Kinh Tin Kính tóm tắt tất cả các điều căn bản của đức tin Kitô giáo. Đọc kinh Tin Kính là dấu chỉ nhìn nhận đức tin của mọi Kitô hữu.

 

18. Đâu là ý nghĩa của Lời nguyện tín hữu?

Tiếp sau phần Tuyên xưng đức tin là phần lời nguyện cho mọi người (cũng gọi là lời nguyện tín hữu, hay trước đây thường gọi là lời nguyện giáo dân).

Cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn không những cho Giáo Hội, cho cộng đoàn và cho những người tham dự thánh lễ, mà còn cho tất cả mọi người, như lời khuyên của thánh Phaolô (1 Tm 2, 1).

Trong lời nguyện cho mọi người, chúng ta để con tim chúng ta cùng rung nhịp đập với mọi tạo vật, với mọi chiều kích của vũ trụ, biết thông cảm với những khổ đau, lao nhọc, với những niềm hy vọng của mọi người trên trái đất này.

Lời nguyện cho mọi người phải ôm trọn toàn thế giới trong vòng tay của mình và khẩn cầu Thiên Chúa đổ ơn dồi dào trên các tạo vật của Người.

 

19. Quyên tiền có phải là nghi thức thừa thãi không?

Một số người không thích quyên tiền trong các thánh lễ Chúa nhật, vì việc ấy làm chia trí trong lúc cầu nguyện. Phải chăng đó là hành vi quá vật chất và trần tục trong khung cảnh hoàn toàn thiêng liêng ?

Quyên tiền là một nghi thức rất cổ xưa và là sự tổng hợp của hai cách thực hành đã có từ buổi đầu của Kitô giáo:

° Một đàng, các tín hữu đem bánh và rượu đến để dâng thánh lễ. Các lễ vật này được rước kiệu lên bàn thờ, được chủ tế đón nhận để dâng lên Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của phần Dâng Lễ và lời nguyện tiến lễ (lời nguyện trên lễ vật). Từ thế kỷ thứ IX, vì việc nhận lễ vật bằng tiền mặt có vẻ tiện lợi hơn, nên việc rước kiệu lễ vật được thay thế bằng việc quyên tiền. Việc quyên tiền này trong thánh lễ là dấu chỉ sự tham dự tích cực của mọi tín hữu vào thánh lễ cũng như lễ vật của mỗi người. Nghi thức kiệu lễ vật trong thánh lễ, hiện vẫn còn được thực hiện tại một vài miền và vào các dịp lễ lớn, giữ lại dấu vết của tục lệ cổ xưa này.

° Đàng khác, tình liên đới giữa các phần tử trong cộng đoàn Kitô được cổ vũ ngay từ thời sơ khai để cung cấp cho những nhu cầu của Giáo Hội và của người nghèo.

Do đó việc quyên tiền trong thánh lễ là một trong những phương cách thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và tình liên đới với tha nhân.

 

20. Tại sao chủ tế đổ ít nước vào rượu?

Ngày xưa, tại các xứ vùng biển Địa Trung Hải, người ta có thói quen pha một chút nước vào rượu, thường nặng và gắt.

Vào bữa Tiệc Ly (bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi chịu tử nạn), phải chăng Chúa Giêsu đã pha chút nước vào rượu nho ? Có thể như vậy, tuy không có một tài liệu nào xác quyết việc này cả. Nhưng từ thế kỷ thứ II, người ta có thể xác định chắc chắn có việc pha nước vào rượu trong thánh lễ.

Nghi thức này có ý nghĩa rất hay: đó là dấu chỉ mối liên quan chặt chẽ giữa thần tính và nhân tính trong Chúa Kitô; đồng thời, là sự liên kết chặt chẽ của chúng ta (tượng trưng bởi nước) với Chúa Kitô (rượu nho) làm thành lễ vật dâng trong trong thánh lễ. Chúa Kitô không tự hiến tế một mình, nhưng liên kết với Giáo Hội mà chính Người là đầu.

Ý nghĩa phong phú của các biểu tượng này được thể hiện trong lời cầu nguyện của vị chủ tế khi pha chút nước vào rượu nho: “Cũng như giọt nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tính Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con”.

 

21. Cử hành thánh lễ với loại rượu nho nào?

Qui luật duy nhất là dâng thánh lễ với rượu nho tự nhiên và nguyên chất, nghĩa là không pha trộn với chất nào khác.

Tại nhiều xứ không trồng nho được, người ta sử dụng rượu nho tự nhiên có nồng độ hơi cao một tí, như rượu Porto chẳng hạn, để có thể giữ được lâu.

Trước thế kỷ thứ XVI, người ta thường dùng rượu nho đỏ (hiện nay, phụng vụ theo truyền thống Byzance, bên Đông Phương, vẫn còn duy trì tập tục này). Vào thế kỷ thứ XVI tại Tây Phương, khi người ta bắt đầu dùng khăn lau để tráng chén lễ, người ta thích dùng rượu nho trắng hơn để dâng lễ vì ít để vết.

 

22. Tại sao chủ tế lại rửa tay cuối phần Dâng lễ?

Dù không được coi là quan trọng trong thánh lễ, nghi thức này không thiếu ý nghĩa sâu sắc.

Rửa tay trước khi làm một việc gì cần sự sạch sẽ đặc biệt, đó là chuyện tự nhiên. Vì thế bạn không nên ngạc nhiên khi thấy vị chủ tế rửa tay, để chuẩn bị cầm bánh và rượu sẽ được truyền phép để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô.

Nghi thức rửa tay đã có từ thế kỷ thứ IV. Vào thời kỳ này, người ta còn đem đến cho vị chủ tế không những bánh và rượu để được truyền phép, mà cả những sản phẩm cần dùng khác để các thầy phó tế phân phát cho người nghèo sau thánh lễ.

Hơn nữa, việc rửa tay cũng cần thiết sau khi chủ tế xông hương lễ phẩm và bàn thờ (nghi thức xông hương muốn nói lên rằng lễ phẩm và lời cầu nguyện của Giáo Hội cũng ví như hương trầm bay lên trước nhan thánh Chúa).

Tuy nhiên ngay từ đầu, nghi thức rửa tay luôn có một ý nghĩa thiêng liêng, đó là dấu hiệu của việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì nước là dấu chỉ của sự thanh tẩy.

Khi rửa tay, vị chủ tế đọc lời Thánh vịnh 50, câu 4: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm, xin Ngài thanh tẩy”.

Cho dù mọi tín hữu có thể thông dự vào việc thanh tẩy này, nghi thức rửa tay chỉ dành riêng cho chủ tế, vì người ta hiểu rằng, trong chốc lát, vị chủ tế sẽ hành tác nhân danh Chúa Kitô.

 

23. Kinh Tạ Ơn là gì?

Kinh Tạ Ơn (trước đây gọi là Kinh nguyện Thánh Thể) là kinh nguyện quan trọng nhất trong thánh lễ. Đó là trung tâm điểm của bí tích Thánh Thể. Không có kinh Tạ Ơn thì không có thánh lễ. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn, nghĩa là Người đọc kinh Tạ Ơn (xem Lc 22, 19).

Kinh Tạ Ơn khởi đầu bằng lời mời cộng đoàn hướng tâm hồn lên để cầu nguyện và tạ ơn Thiên Chúa:

° Chúa ở cùng anh chị em. – Và ở cùng cha.

° Hãy nâng tâm hồn lên. – Chúng con đang hướng về Chúa.

° Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. – Thật là chính đáng.

Hãy tạ ơn Chúa ! Đó là lời quan trọng nhất. Tạ ơn Chúa là mục đích chính của thánh lễ. Tham dự thánh lễ là tạ ơn Chúa cả trời đất vì bao kỳ công của Người hôm qua, hôm nay và ngày mai.

Kinh Tạ Ơn luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha.

Cấu trúc kinh Tạ Ơn:

Chúng ta dừng lại ít phút để khảo sát kỹ lưỡng và để hiểu rõ cấu trúc của kinh Tạ Ơn. Để tham khảo, tôi đề nghị bạn tìm đọc kinh Tạ Ơn II trong sách lễ Rô-ma. Sau đây là cấu trúc:

1. Đối thoại mở đầu: đối thoại giữa vị chủ tế và cộng đoàn, mà chúng ta vừa nêu ở trên, nhằm mời gọi tâm tình tạ ơn.

2. Lời Tiền Tụng: linh mục chủ tế nhân danh toàn thể cộng đoàn tán tụng Chúa Cha và cảm tạ Người về tất cả công trình cứu chuộc cho nhân loại, hoặc về lý do nào đặc biệt, tùy ngày, tùy lễ, tùy mùa khác nhau. Lời Tiền Tụng cũng làm nổi bật công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.

3. Kinh “Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !”: toàn thể cộng đoàn, hợp với các thần thánh trên trời, hát hay đọc “Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !” Đây là lời tung hô, thờ lạy, tạ ơn và vinh danh Chúa Cha.

4. Kinh khẩn cầu: xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, dùng quyền năng để thánh hiến bánh và rượu, nghĩa là làm trở thành Mình và Máu Chúa Kitô.

5. Lời truyền Phép: linh mục nhân danh Chúa Kitô đọc lại những lời Người đã nói trong bữa Tiệc Ly. Chính Chúa Kitô đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa tối sau cùng này, ban cho các Tông Đồ Mình và Máu Người, dưới hình bánh và hình rượu, để ăn và uống, và truyền cho các ông phải làm cho mầu nhiệm này tồn tại mãi.

6. Kinh tưởng niệm: sau lời truyền phép, Giáo Hội tưởng niệm toàn bộ công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, nhất là việc tưởng niệm cuộc khổ hình, phục sinh, lên trời của Người, và loan báo ngày Người sẽ trở lại. Kinh tưởng niệm được bắt đầu bằng lời tung hô của cộng đoàn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết…”

7. Kinh khẩn cầu (2): xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, các tín hữu được lãnh nhận ơn cứu độ và được hiệp nhất trong Hội Thánh, là thân thể sống động của Chúa Kitô.

8. Lời chuyển cầu: sau kinh khẩn cầu là một loạt các lời cầu xin, cho Giáo Hội, cho mọi người trong cộng đoàn, cho kẻ sống cũng như đã qua đời, v.v… trong niềm hiệp thông với các thánh.

9. Vinh tụng ca: cuối kinh Tạ Ơn, một lần nữa linh mục dâng lời tôn vinh Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần.

10. Amen ! Toàn thể cộng đoàn kết thúc kinh Tạ Ơn bằng cách xướng hoặc hát Amen ! có nghĩa là cộng đoàn tán đồng với tất cả những điều vừa được đọc trong kinh Tạ Ơn.

Như thế, thánh lễ, nhất là trong kinh Tạ Ơn, trở thành tổng hợp và khuôn mẫu cho mọi lời nguyện Kitô giáo, dưới mọi khía cạnh, cho mọi nhu cầu, bắt đầu bằng lời tụng ca và lời tạ ơn lên Thiên Chúa đã ban cho chúng ta biết bao ơn lành. Thực sự, chẳng phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận những hồng ân đó, nhưng vì Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước tiên.

 

24. Tại sao chỉ có một mình linh mục đọc kinh Tạ Ơn?

Kinh Tạ Ơn không phải là kinh nguyện của một mình linh mục, nhưng là của toàn thể cộng đoàn. Bằng chứng là, khi đọc kinh Tạ Ơn, linh mục không dùng chữ “con” nhưng là “chúng con”. Thí dụ trong kinh Tạ Ơn II, ta thấy những câu như sau:

° “Vì thế, chúng con xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này…”

° “Giờ đây tưởng nhớ… chúng con dâng lên Cha bánh trường sinh và chén cứu độ này…”

° “Sau hết, xin Cha rộng lòng thương xót cho tất cả chúng con…”

Vị linh mục không tách rời với cộng đoàn; ngài liên kết với cộng đoàn và nhân danh cộng đoàn mà cầu nguyện. Dĩ nhiên, có lúc linh mục phát biểu nhân danh Chúa Kitô: đó là lúc ngài đọc lời truyền phép Thánh Thể. Nhưng hầu hết, ngài phát biểu nhân danh cộng đoàn.

Như thế, tất cả cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa, khẩn cầu Chúa Thánh Thần, cả cộng đoàn dâng lời cầu xin lên Chúa Cha. Do đó nếu nói rằng kinh Tạ Ơn là việc dành riêng cho linh mục mà thôi thì không đúng tí nào. Tuy một mình linh mục đọc hầu hết kinh Tạ Ơn, nhưng ngài nhân danh mọi người mà làm. Kinh nguyện này không phải là kinh cá nhân của linh mục nhưng là kinh nguyện chung của toàn cộng đoàn. Lời thưa “Amen” của cộng đoàn diễn tả điều đó.

25. Chúc bình an, một hành vi xã giao mà thôi?

Khi vị chủ tế chúc: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”, cộng đoàn thưa: “Và ở cùng cha”.

Và chủ tế nói thêm: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Bạn đừng nghĩ rằng việc chúc bình an ở đây cũng giống như việc thân hữu ngoài đời trao tặng cho nhau. Không, đây là một sự hòa giải. Thật vậy, trong Bài giảng trên núi, Chúa Giêsu nói rõ rằng trước khi thực hiện mọi hành vi phụng tự, cần phải làm hòa với anh chị em mình trước đã: “Nếu ngươi đang dâng của lể nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ ” (Mt 5, 23-24). Do đó, trong phụng vụ Đông Phương, nghi thức chúc bình an vẫn còn được đặt trước kinh Tạ Ơn, cũng như tại Tây Phương trong thời gian đầu. Việc thực hành nghi thức chúc bình an đã biến mất từ nhiều thế kỷ nay. Sau Công Đồng Vaticanô II, nghi thức này lại được lồng vào trong thánh lễ. Một số người không thích cho lắm, vì họ nghĩ rằng: ngoài các cử chỉ, di động phiền toái, lại còn thiếu sự thân mật giữa các tín hữu đang tham dự thánh lễ.

Thật ra, nghi thức chúc bình an trước tiên có một ý nghĩa thiêng liêng. Thánh lễ là nơi mà tất cả tín hữu khám phá và nhận ra mình là con cái của cùng một Cha, do đó tất cả là anh chị em với nhau. Nói lên điều đó không thôi thì chưa đủ, cần phải được thể hiện cụ thể. Cử chỉ chúc và trao bình an là một trong những dấu hiệu đẹp nhất, qua đó chúng ta biểu lộ rằng chúng ta là con cùng một Cha.

Nhưng đôi khi việc chúc bình an đòi hỏi một sự cố gắng lớn, bởi vì cử chỉ này đòi hỏi mỗi người ra khỏi cái tôi chật hẹp của mình và coi người khác như là người mà ta phải tôn trọng và yêu thương. Trong một vài trường hợp, để chúc bình an một cách thật lòng, chúng ta cần phải tha thứ trong lòng trước đã, người mà chúng ta sắp đưa tay chúc bình an. Việc này không dễ dàng gì !

Việc chúc bình an được đặt trước phần rước lễ. Điều đó bình thường thôi, bởi vì làm sao chúng ta có thể đến gần Chúa Kitô và nói rằng chúng ta yêu mến Người, trong khi chúng ta từ chối hướng mặt về người anh chị em đang ở bên cạnh chúng ta ? “Kẻ nào không yêu mến anh chị em mà mình xem thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không xem thấy được” (1 Gioan 4, 20).

Như thế, chia sẻ với người bên cạnh một nắm tay, hôn bình an hoặc cúi đầu chúc bình an (tùy theo phong tục của mỗi dân tộc) không phải là cử chỉ xã giao, lịch sự, mà là dấu chỉ hiệp thông trong sự bình an và tình yêu thương nhau. Và sự bình an này do Chúa Kitô ban tặng (“Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”). Thật vậy, Chúa Kitô đã phán: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Gioan 14, 27). Do đó, sự bình an này rộng lớn hơn những gì con tim chúng ta có thể chứa đựng được, cũng như rộng lớn hơn những gì bàn tay chúng ta có thể truyền đạt được.

 

26. Nghi thức bẻ bánh có ý nghĩa gì?

Nghi thức bẻ bánh lập lại cử chỉ của Chúa Kitô trong bữa Tiệc Ly: “Người cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho các môn đệ”. Vào thời các Tông đồ, thánh lễ được gọi là việc “bẻ bánh”. Thánh Phaolô giải thích: “Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao ? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần vào một tấm bánh” (1 Cor 10, 16-17).

Cử chỉ bẻ bánh thể hiện rõ ràng giá trị và tầm quan trọng của dấu hiệu hiệp nhất của mọi người trong cùng một tấm bánh, và của dấu hiệu yêu thương trong việc mọi người cùng chia với nhau tấm bánh duy nhất.

Trước đó, kinh Tạ Ơn đã nhấn mạnh điều này khi bày tỏ lời nguyện sau: “Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô” (kinh Tạ Ơn II). Chúng ta không thể tăng triển trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô nếu chúng ta không cùng một lúc tăng triển trong sự hiệp nhất huynh đệ.

Ngày xưa, nghi thức bẻ bánh chiếm nhiều thời gian vì phải chia sẻ bánh thánh cho tất cả cộng đoàn. Ngày nay, vì những lý do mục vụ (số người rước lễ đông chẳng hạn), người ta thường sử dụng những bánh lễ nhỏ cho giáo dân và một bánh lễ lớn cho linh mục. Ngài chỉ bẻ bánh lớn này mà thôi. Do đó nghi thức bẻ bánh có thể khó nhận ra được, nhưng vẫn luôn giữ được ý nghĩa sâu sắc của nó.

 

27. Tại sao chủ tế bỏ một miếng bánh thánh nhỏ vào chén thánh?

Sau khi bẻ bánh thánh, ngay trước lúc rước lễ, linh mục bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh.

Sách lễ không giải thích nghi thức này, có lẽ do không thấy sự cần thiết hoặc do không chắc chắn về ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn giữ lại nghi thức ấy vì muốn trung thành với truyền thống. Có hai cách giải thích:

1.Nghi thức này có thể liên quan đến thời gian đầu của Giáo Hội. Các mẫu bánh thánh trong thánh lễ của Đức Giáo Hoàng được phânchia cho các cha xứ tại các nhà thờ nội thành Rôma. Những vị này không thể đến dự lễ Đức Giáo Hoàng cử hành do phải dâng lễ cho giáo dân. Việc chia bánh thánh này muốn diễn tả sự hợp nhất của linh mục đoàn thành Rôma với vị giáo hoàng của mình.

2. Cũng có thể cho rằng đây là những bánh thánh được giữ lại để cho những người bệnh và những người hấp hối rước lễ. Người ta cathay thế lại mỗi khi bánh thánh trở nên khô cứng, bằng cách nhúng vào rượu thánh cho mềm bớt để chịu lễ cho dễ dàng hơn.

Ngày nay, mặc dù chưa có giải thích chính thức nào, người ta thường nói đến ý nghĩa tượng trưng của bánh thánh và rượu thánh. Giới thiệu mình và máu, như Chúa Giêsu đã làm ở bữa Tiệc Ly, theo não trạng của người Do-thái, là gợi lên sự chết, vì sự sống (tượng trưng bởi máu) không ở trong xác thịt nữa. Do đó, hòa lẫn Mình Thánh và Máu Thánh trong chén thánh để diễn tả rằng Chúa Kitô hằng sống, đó là chuyện tự nhiên. Vả lại, khi nhìn bánh và rượu trên bàn thờ, chúng ta nghĩ ngay đến bữa ăn, dấu chỉ của sự sống.

Khi bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh, chủ tế đọc nhỏ: “Xin Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô hòa lẫn với nhau mà chúng con sắp lãnh nhận cho chúng con được sống muôn đời”.

 

28. Tại sao phải dùng bánh không men trong thánh lễ?

Luật hiện hành của Giáo Hội buộc rằng thánh lễ phải được cử hành với bánh không men (Giáo Luật, số 926).

Nhưng ngày xưa không hẳn như thế. Vào giữa thế kỷ thứ II, thánh Justinô cho biết là giáo dân đem bánh nướng tại nhà mình đến để dâng trên bàn thờ. Chắc chắn đó là bánh nướng được làm dậy bằng men. Cho tới thế kỷ thứ XI, người ta chấp nhận cả bánh có men lẫn bánh không men để cử hành thánh lễ. Vào giữa thế kỷ XI, Giáo Hội Tây Phương có thói quen chỉ dùng bánh không men.

Tại sao bánh có men được thay dần dần bằng bánh không men ?

1. Trước tiên, vì theo gương Chúa Kitô. Theo các thánh sử Mát-thêu (26, 17), Mác-cô (14, 12) và Lu-ca (22, 7-8), bữa Tiệc Ly là tiệc lễ Vượt Qua, trong đó người ta dùng bánh nướng không men để tưởng nhớ ngày dân Do-thái, do phải vội vã lên đường trốn ra khỏi Ai-cập, họ không có đủ thời giờ để chờ bột dậy men rồi đem nướng. Dùng bánh không men là cách để nhắc nhở việc ấy.

2. Vào thế kỷ thứ XII, việc tôn kính Thánh Thể trở nên phổ biến và được thực hiện một cách tỉ mỉ. Người ta cố giữ làm sao không cho một mẩu vụn bánh nào rơi xuống đất. Bánh không men được xét là thích hợp hơn để dâng thánh lễ vì ít bở hơn và nhẹ hơn bánh có men. Vả lại, với bánh không men, người ta làm được dễ dàng những tấm bánh trắng và đẹp, dấu chỉ sự tinh tuyền của lễ vật chúng ta dâng. Hơn nữa, với bánh không men, người ta dễ làm các bánh nhỏ dành cho giáo dân.

3. Thánh lễø là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Do Giáo Hội Đông Phương vẫn duy trì bánh không men, nên việc chúng ta cũng dùng bánh không men để biểu lộ sự hợp nhất với các Kitô hữu Đông Phương.

4. Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác. Dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể.

 

29. Có phải không lên rước lễ vì ta tự xét là không xứng đáng hoặc chưa sẵn sàng chăng?

Ngày xưa, linh mục dâng thánh lễ bằng tiếng la-tinh và quay lưng lại với giáo dân. Mỗi người tự dọn mình bằng cách đọc thầm kinh dọn chịu lễ trước khi lên rước lễ. Nhưng ngày nay, theo tinh thần canh tân phụng vụ sau Công Đồng Vaticanô II, toàn bộ thánh lễ là sự chuẩn bị cho việc rước lễ. Hay nói đúng hơn, toàn bộ thánh lễ là hiệp lễ (rước lễ): từ việc mặc niệm lúc đầu thánh lễ, nhìn nhận tội lỗi mình, nghe Lời Chúa qua các bài đọc, lời nguyện giáo dân, thông dự vào kinh Tạ Ơn, đọc kinh Lạy Cha. Tất cả đều nhằm khai triển hành động của Chúa Kitô, Đấng làm cho chúng ta trở nên thân thể của Người.

Trong kinh Tạ Ơn, sau khi bánh, rượu đã được thánh hiến, chúng ta xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta được hiệp nhất trong Hội Thánh, là Nhiệm Thể của Chúa Kitô.

Bạn thấy rước lễ quan trọng như thế nào khi biết rằng rước lễ tóm lược toàn bộ thánh lễ. Do đó những người tham dự thánh lễ không nên tách rời cộng đoàn và tự cô lập mình, khi nghĩ rằng mình không xứng đáng lên rước lễ. Bạn không quên điều này: rước lễ không phải là một phần thưởng, nhưng là một lương thực.

Bạn hãy nhớ lại câu mà mọi người đều đọc trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự đến cùng con, nhưng xin Chúa chỉ phán một lời, thì con được lành mạnh” (Sách Lễ Rôma, bản dịch 1992 của HĐGMVN). Như thế, vấn đề ở đây không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, nhưng trái lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi, nhưng là một ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của ta ví tựa như trời cao với vực thẳm, cho nên đây không là lúc đặt vấn đề mình có xứng đáng hay không để rước Chúa vào lòng. Lời nguyện trên lập lại lời của viên sĩ quan đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình: “nhưng xin Ngài phán một lời” (Lc 7, 7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu “Hãy cầm lấy mà ăn” quan trọng hơn việc tìm kiếm sự thanh khiết của chúng ta nhiều.

Vả lại, chúng ta cảm thấy nghịch thường khi thấy một số tín hữu nhận lời mời của Chúa Kitô đến dự bữa tiệc thánh của Người, và do đó, tự xem là con cái trong một gia đình, lại tự tách riêng ra, không tham dự rước lễ, làm như họ là người ngoài bữa tiệc hoặc là những người bàng quan. Tham dự thánh lễ mà không rước lễ là chưa thấu hiểu ý nghĩa đích thật của bí tích Thánh Thể.

Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị vạ tuyệt thông hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể vào lúc rước lễ, với đức tin cao độ, chúng ta thực sự cảm thấy chưa sẵn sàng trong nội tâm để tiến lên đón nhận Mình thánh Chúa. Vì rước lễ đòi hỏi sự chuẩn bị cả con người chúng ta, nên phải làm hết sức để tránh làm sao cho việc rước lễ khỏi trở nên máy móc, nhàm chán. Có lẽ trong một vài trường hợp, ta không nên lên rước lễ, không phải vì ưu tư về sự thanh khiết của mình, nhưng vì không phù hợp với lòng thành của mình trước cử chỉ ta sắp thực hiện.

 

30. Tại sao chúng ta ít khi được rước cả Mình Thánh và Máu Thánh Chúa?

Giáo Hội khuyến khích việc chịu lễ Mình và Máu Thánh Chúa, vì hoàn toàn phù hợp với lời mời của Chúa Giêsu: “Hãy cầm lấy mà ăn”, “Hãy cầm lấy mà uống”.

Nhưng khi có nhiều người tham dự thánh lễ, việc cho rước lễ dưới hai hình bánh và rượu gặp nhiều khó khăn cụ thể. Đó là lý do giải thích tại sao hiếm khi bạn được rước lễ dưới hai hình thức. Mong rằng trong các dịp lễ trọng, và khi có nhiều thừa tác viên cho rước lễ, giáo dân được rước cả Mình và Máu Thánh Chúa.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây, là khi bạn chỉ rước Mình Thánh Chúa hoặc chỉ rước Máu Thánh Chúa, bạn đều rước Chúa Giêsu Kitô trọn vẹn. Người hiện diện thật sự và trọn vẹn ngay chỉ dưới một hình thức (Sắc lệnh của Công Đồng Trentô (hoặc Triđentinô), khóa họp 13, năm 1551).

Có người đặt câu hỏi: có thể rước lễ nhiều lần trong ngày được không ? Theo Giáo Luật mới (1983), số 917, ai đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong ngày đó, nhưng chỉ ở trong thánh lễ mà họ tham dự mà thôi.

 

31. Nên rước lễ bằng tay hay bằng miệng?

Đối với một số người, rước lễ bằng tay có vẻ thiếu tôn kính với Mình Thánh Chúa Kitô. Hôm trước ngày chịu nạn, trong lúc lập phép Thánh Thể, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, đọc lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ” (Lc 22, 19). Chắc chắn là các môn đệ đã cầm bánh thánh trong tay của mình. Và Giáo hội cũng đã tiếp tục làm như thế trong suốt mười thế kỷ đầu. Sử liệu không thiếu để minh chứng việc này.

Việc rước lễ bằng miệng chỉ xuất hiện sau đó. Một đàng, việc Giáo Hội chống mọi hình thức ma thuật và tục lệ mê tín dị đoan (thí dụ: chôn bánh thánh trong đất ruộng để mùa gặt được tốt) dẫn đến việc rước lễ bằng miệng. Đàng khác, do người ta ngày càng nhạy cảm về tính chất thiêng liêng của Mình Thánh để rồi đi đến suy nghĩ cho rằng chỉ có linh mục mới có quyền đụng đến bánh thánh.

Rước lễ bằng tay và rước Máu thánh Chúa được tái lập bởi Công Đồng Vaticanô II.

Ngày nay người tín hữu được tự do chọn một trong hai cách rước lễ. Cách nào hay hơn đối với bạn ? Điều cốt yếu là bạn tham dự bữa tiệc Thánh Thể và đón rước Mình Thánh Chúa Kitô phục sinh với tất cả lòng cung kính.

 

32. Tại sao các tín hữu không tự đến lấy bánh thánh?

Các tín hữu không tự động đến lấy bánh thánh, mà nhận bánh thánh từ tay linh mục, phó tế hay từ một thừa tác viên. Ở bữa Tiệc Ly cũng vậy. Chính Chúa Giêsu đã trao ban bánh và rượu cho các môn đệ của mình.

Thánh Thể là ân huệ được ban tặng cho chúng ta. Bạn không tự mình cầm lấy được, nhưng đón nhận từ một người khác. Tự mình nhận lấy bánh thánh và rượu thánh có thể sẽ dẫn đến sự hiểu lầm cho rằng bạn có quyền nào đó trên các tặng phẩm cao quí này. Không phải thế. Thánh Thể là hồng ân của Chúa, không ai có quyền hoặc có thể chiếm đoạt lấy cho mình. Chỉ có Chúa Kitô ban hồng ân theo ý Người và theo lòng nhân từ của Người.

Ai đón nhận bánh thánh là đón nhận ơn cứu độ, vì người ấy đón nhận chính Đấng Cứu Thế là Đấng hiện diện dưới hình bánh.

 

33. Bổng lễ (tiền xin lễ) để làm gì?

Tất cả mọi thánh lễ được cử hành đều dành cho toàn thế giới, như Chúa Giêsu đã phán: “Mình Thầy bị phó nộp vì các con. Máu Thầy đổ ra để mọi người được tha tội” (Lc 22, 19-20 và Mt 26, 26-28). Vì thế trong thánh lễ, Giáo Hội cầu nguyện cho hết mọi người: hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân cũng như cho những người đã qua đời. Tuy nhiên, vị chủ tế vẫn có thể kết hợp các ý nguyện chung này với một ý cầu nguyện riêng của tín hữu.

Thánh lễ vô giá. Nhưng ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu đã muốn chứng tỏ rằng việc tham dự thánh lễ bao gồm toàn vẹn bản thân, cũng như chính Chúa Kitô đã trao hiến trọn vẹn thân Người. Vì thế họ đã đem đến dâng hoặc bằng hiện vật (bánh, rượu, đèn nến…), khởi đầu cho việc kiệu rước lễ vật trong thánh lễ, hoặc bằng tiền để trang trải những chi phí phụng tự, giúp cho linh mục có điều kiện sinh sống, trang trải các hoạt động của Giáo Hội. Đó là ý nghĩa lễ vật của họ khi họ ủy thác cho vị linh mục một ý chỉ nào đó.

Từ đó phát sinh “tiền xin lễ” khá phổ biến kể từ thế kỷ thứ XII. Các tòa giám mục tùy ý ấn định giá bổng lễ nhưng phải hợp với khả năng của mọi người. Vì lo rằng việc xin lễ có thể phát sinh những hình thức thương mại, nên nhiều người chủ trương dẹp bỏ thói quen này. Nhưng các hoạt động của Giáo Hội cũng như của hàng giáo sĩ đều dựa vào những đóng góp tự nguyện của giáo dân, trong đó có việc dâng bổng lễ. Vì thế trong thực tế, thật khó mà xem thường phần đóng góp quí báu này của giáo dân.

 

34. Có nên làm lễ cầu cho linh hồn thai nhi không?

Thánh lễ cầu các linh hồn nơi luyện ngục, mà những linh hồn ở luyện ngục là những ai đã chết mà còn mang tội nhẹ và hình phạt tạm (hình phạt tạm là người mắc tội đã được tha khi còn sống, nhưng chưa đền trả hết hậu quả của tội). Như vậy, thai nhi chưa có tội nhẹ cũng như chưa mang lấy hình phạt tạm, nên không thể ở trong trường hợp này.

Lại nữa, thánh lễ có hiệu năng tha tội nhẹ riêng và đền thay hình phạt tạm, chứ thánh lễ không thể tha hậu quả tội nguyên tổ, nên thai nhi không thể ở trong trường hợp này.

Giáo hội từ xưa đến nay chưa có một bản văn Phụng vụ nào cầu cho linh hồn thai nhi. Vậy nên, không nên cử hành việc dâng lễ cầu cho “linh hồn” thai nhi, mà chỉ dâng lễ cầu nguyện cho mọi người biết tôn trọng và ý thức bảo vệ sự sống.

 

35. Có được nhận lễ đời đời không?

Chỉ có vào thiên đàng hay xuống hỏa ngục mới là đời đời, còn luyện ngục chỉ là sự tạm bợ và luyện ngục sẽ chấm dứt sau ngày chung thẩm (phán xét chung); hình phạt luyện ngục cũng là hình phạt tạm có thời hạn. Nên dĩ nhiên không ai cầu cho người đã vào thiên đàng, và cũng chẳng ai cầu cho kẻ đã sa hỏa ngục vì đã vô phương cứu thoát, mà chỉ cầu cho linh hồn ở luyện ngục và đền thay nguyện giúp họ. Và vì luyện ngục là tạm, nghĩa là có thời hạn, thì không có chuyện cầu nguyện đời đời cho ai đó xin lễ.

Lại nữa, không ai sống đời đời hay tổ chức – nhóm – hội đoàn nào tồn tại vĩnh viễn để mà nhận làm lễ đời đời được.

Chính vì thế, việc nhận tiền để dâng lễ đời đời là một việc không xác đáng, và cần giải thích rõ cho những ai xin lễ.

Tuy nhiên, có những người khi còn sống đã dâng cúng một số tài sản, hoặc gia nhập làm hội viên của dòng, tu hội, hay những nhóm hoạt động khác, thường được gọi là “ân nhân” và được cấp “chứng chỉ”, “chứng nhận” hay “bằng ân nhân”… để khi còn sống cũng như khi qua đời họ được hưởng những ơn ích của thánh lễ và lời cầu nguyện của những nơi họ là ân nhân hay là thành viên, thì đó là một việc làm hữu ích. Nhưng đừng lầm lẫn giữa “ân nhân” và “lễ đời đời”

 

36. Có nên nhận lễ cầu cho các “linh hồn mồ côi” không?

Thông thường, nhiều người vẫn nghĩ linh hồn mồ côi là những linh hồn không có người thân còn sống hoặc có mà lãng quên hoặc không ai nhớ đến. Thế nhưng, trong Chúa và trong mầu nhiệm các thánh thông công thì không có linh hồn nào là mồ côi trước mặt Chúa và trong lời nguyện của Giáo hội.

Trong thánh lễ (các Kinh Nguyện Thánh Thể) Giáo hội vẫn luôn có phần cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Các linh hồn được hưởng nhờ hiệu quả thánh lễ không tùy thuộc vào “số lượng” của người sống dâng, mà nhờ vào Lòng Thương Xót Chúa xét với hậu quả hình phạt tạm của linh hồn đó. Sự công minh của Thiên Chúa phân phát ơn cứu độ cho linh hồn nào sớm được hưởng Tôn Nhan Chúa là do chính Người, chứ người còn sống không thể dùng công trạng hay tiền của mà ép Thiên Chúa chọn linh hồn này trước linh hồn kia sau.

 

37. Có thể cử hành thánh lễ chỗ nào khác ngoài nhà thờ không?

Thánh lễ có thể được cử hành ở ngoài nhà thờ, như ta đã từng thấy tại những nơi khốn khổ (trong trại tù, trong nhà riêng ở những vùng có cấm đạo, v.v…). Thánh lễ có thể được cử hành dưới nhiều hình thức khác nhau.

Khi thánh lễ được cử hành ở những nơi khác ngoài nhà thờ, điều quan trọng là ý nghĩa thánh lễ phải được tôn trọng tối đa. Tại những nơi có đông người tham dự, việc cử hành nhắm sao cho trang trọng để mọi người có thể tham dự một cách tích cực và sốt sắng. Tại nhà riêng, vấn đề quan trọng là đừng để việc cử hành thánh lễ bị tầm thường hóa: sắp xếp chỗ cử hành, chủ tế phải mặc y phục phụng vụ, người tham dự phải trang nghiêm, đó là những điều giúp cho thánh lễ thêm long trọng.

 

38. Dự lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh có được coi là tham dự thánh lễ thật sự hay không?

Thánh lễ trên đài truyền hình hoặc truyền thanh là một thánh lễ đích thật, vì được truyền trực tiếp từ một giáo xứ hay một dòng tu. Nhưng đài truyền hình và truyền thanh không truyền hết được tất cả các phần và chi tiết của thánh lễ.

Thánh lễ được truyền hình và truyền thanh có những lợi điểm nhưng cũng có những giới hạn. Các phương tiện truyền thông này giúp cho những ai (bệnh nhân chẳng hạn) không thể đi đến nhà thờ có thể cầu nguyện trong sự hiệp thông với một cộng đoàn và liên kết với toàn thể Hội Thánh. Họ được nghe các bài Sách Thánh Chúa nhật và nghe bài giảng chú giải thực dụng của Lời Chúa. Vả lại, các tín hữu, nơi mà thánh lễ được truyền hình hoặc truyền thanh, cũng có ý thức trong việc lôi kéo, khuyến khích lòng thành và đạo đức của những ai đang phải sống cô quạnh để họ hiệp thông với Hội Thánh qua phương tiện truyền thông.

Nhưng thánh lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh không thể thay thế việc đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Không phải việc xét dự lễ như thế có được xem như đã giữ luật buộc dự lễ ngày Chúa nhật hay chưa, bởi những người không thể di chuyển được vì do bệnh tật, do phải sống xa nhà thờ hay do thời tiết cản trở, đều không buộc phải đi lễ ngày Chúa nhật. Như thế, chúng ta không có lý do gì ngồi ở nhà, thực hiện điều mà đáng lẽ chúng ta phải làm ở nhà thờ.

Yếu tố đầu tiên của mọi bí tích, đó là cộng đoàn tín hữu đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, và trong lời cầu nguyện, trong lúc nghe Lời Chúa và trong tình bác ái huynh đệ, họ cùng nhau cử hành sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô.

 

39. Để cử hành thánh lễ, người ta có thể thay thế bánh miến và rượu nho bằng các thứ khác, chẳng hạn bằng cơm và trà ở Á Châu, hoặc bằng bánh khoai mì và rượu thốt-nốt bên Phi Châu được không?

Ngày nay, Kitô giáo được loan truyền khắp thế giới và Công Đồng Vaticanô II mong muốn mỗi dân tộc diễn tả đức tin theo truyền thống văn hóa riêng của mình. Vậy tại sao không thích nghi bữa tiệc Thánh Thể với bữa ăn truyền thống của mỗi dân tộc ?

Bánh miến (làm bằng bột mì) và rượu nho có vẻ quá gắn bó với nền văn hoá Cận Đông và Tây Phương. Nhưng bạn đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do-thái, chính Người đã dùng bánh miến và rượu nho để lập phép Thánh Thể.

Dùng bánh miến và rượu nho cũng là một cách để nhớ lại rằng Thiên Chúa đã đi vào Lịch Sử. Mạc khải Kitô giáo đã được thực hiện trong một nơi chốn rõ rệt và một thời điểm nhất định. Khi chúng ta tuân theo huấn lệnh của Chúa Giêsu “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”, chúng ta phải để ý đến những điều kiện cụ thể này của việc Người nhập thể.

Đàng khác, bạn đừng quên biểu tượng phong phú của bánh miến và rượu nho trong Kinh Thánh, thí dụ:

° “Thầy là bánh hằng sống” (Gioan 6, 35.48). “Thầy là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời” (Gioan 6, 51). (Bánh ở đây phải hiểu là bánh miến).

° “Thầy là cây nho thật” (Gioan 15, 1). “Thầy là cây nho, các con là ngành nho…” (Gioan 15, 5).

“Bánh miến” và “cây nho” là hai đề tài rất thường gặp trong Kinh Thánh.

Do đó, hai thứ thực phẩm này, hơn hẳn mọi thứ khác, nêu bật ý nghĩa về mối giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người, được đóng ấn trong Đức Giêsu Kitô và được cử hành trong mỗi thánh lễ.

 

40. Tại sao buộc đi lễ ngày Chúa nhật?

Ngày nay, nhiều tín hữu nhiệt thành không thích kiểu nói “buộc đi lễ ngày Chúa nhật”. Họ khó chấp nhận việc dâng lễ ngày Chúa nhật như là một bổn phận phải giữ ! Thật vậy, người ta thường nói đến Kitô giáo với những bổn phận phải chu toàn.

Những kiểu nói “luật buộc”, “bổn phận” đúng ra nên được hiểu như là những dấu hiệu báo động: chúng không chỉ định một lý tưởng phải vươn tới, nhưng chỉ là một nhắc nhở lòng trung thành cần phải giữ và phát triển.

Khi đức tin sống động, thì không cần phải nói đến việc buộc giữ ngày Chúa nhật. Nếu bạn yêu mến Chúa Kitô thì bạn không thể không đáp lại lời mời gọi của Người. Khi bạn đang đói và được người ta dọn một bữa ăn thịnh soạn, hỏi rằng bạn có thực sự bị bắt buộc ăn hay không ? Nếu bạn khao khát hạnh phúc và bình an, thì chỉ có Chúa Kitô mới có thể làm cho bạn thỏa lòng. Vậy bạn có bị bắt buộc phải tiếp đón Chúa Kitô khi Người mời gọi bạn đến dự tiệc Thánh Thể của Người không ? Tham dự thánh lễ không phải là dịp để chúng ta lấy lại sức cho đời sống thường nhật của chúng ta hay sao ?

Trước câu hỏi: “có buộc đi lễ các ngày Chúa nhật hay không ?”, câu trả lời sẽ là “có” cho những ai không mắc ngăn trở thật sự để đến tham dự thánh lễ.

Vả lại, Giáo Hội khuyên nhủ các tín hữu cử hành thánh lễ hằng ngày. Tham dự thánh lễ mỗi ngày là thông phần hoàn toàn với hành vi phụng vụ của Giáo Hội để dâng lên trên bàn thờ tất cả đời sống và lịch sử của con người. Đối với các tín hữu có thể đi nhà thờ được, thánh lễ hằng ngày đặt sự phục sinh của Chúa Kitô ngay giữa các hoạt động trong ngày của họ: nghề nghiệp, gia đình, xã hội, v.v…

Trong mối quan hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, khi chúng ta bắt đầu tính toán để khỏi làm hơn bổn phận đòi hỏi, làm vừa vặn cho đúng luật buộc, khi chúng ta cố “mặc cả” về điều “được phép” và “điều cấm đoán” để tìm ra những điều dễ làm hơn, khi chúng ta muốn tìm ơn cứu rỗi “rẻ tiền”, thì lúc đó chúng ta nên xét lại tình trạng sức khỏe đức tin của chúng ta !

 

Kết luận

Qua những câu trả lời trong tập sách nhỏ này, chúng ta đã khám phá ra hoặc khám phá lại ý nghĩa của thánh lễ. Nhưng giải thích thánh lễ vẫn chưa đủ, mà cần phải sống và cử hành thánh lễ trong đức tin, với tất cả tâm tình.

Thánh lễ không phải là một loạt nghi thức nối tiếp nhau, nhưng là cùng một hiến tế tạ ơn, cùng một mầu nhiệm phục sinh. Thánh lễ cũng không thể bị thu nhỏ lại thành một cộng đoàn lắng nghe lời Chúa và tuyên xưng đức tin của mình. Trước tiên thánh lễ là sự hiện diện tác động của hy lễ của Chúa Kitô, chính Người kết hợp và thánh hiến Giáo Hội, chính Người ban đời sống thần linh qua Mình và Máu Người trong rước lễ. Hiến chế về “Phụng Vụ thánh” nói rõ điểm đó:

“Trong Bữa Tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình Máu Người, để nhờ đó Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quí của Người là Giáo Hội việc tưởng nhớ cái Chết và Sống Lại của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc vượt qua, trong đó chúng ta ăn Chúa Kitô, được tràn đầy ân sủng, và được đảm bảo vinh quang tương lai” (số 47).

Giáo Hội không ngừng nhấn mạnh sự quan trọng của thánh lễ trong đời sống Kitô hữu. Thí dụ: theo các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II, thánh lễ là “trung tâm điểm của cộng đoàn tín hữu” (Sắc lệnh LM, số 5), là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (Hiến chế GH, số 11), và là “nguồn mạch ơn thánh hóa cho con người và làm vinh danh Thiên Chúa” (Hiến chế PV, số 10).

Gốc rễ, nguồn mạch, trung tâm, chóp đỉnh: thánh lễ là tâm điểm của đức tin và đời sống của chúng ta. Theo công thức nổi tiếng của Đức Hồng Y Henri de Lubac, “nếu Giáo Hội làm lên thánh lễ” (si l’Église fait l’eucharistie), trước tiên và tiên quyết “thánh lễ làm lên Giáo Hội” (l’eucharistie fait l’Église).

Thánh lễ là bữa tiệc, trong đó Thiên Chúa bổ sức cho chúng ta tiến đến hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Gioan 6, 54).

Ước gì mỗi người chúng ta biết sống sâu sắc bí tích Thánh Thể để lãnh nhận những ơn thánh bổ ích cho cuộc đời của chúng ta và để sinh nhiều hoa trái.

 

 

Mục II: GIẢI THÍCH MỘT SỐ HẠN TỪ PHỤNG VỤ

Alleluia (hay Halêluia)

Tiếng do-thái, có nghĩa “hãy ngợi khen Thiên Chúa”. Alleluia, được đọc hoặc hát trước khi nghe công bố Tin Mừng (Phúc Âm), diễn tả niềm hân hoan, tán dương và ngợi khen, và mời gọi chúc tụng Thiên Chúa vinh quang. Do đó, trong Mùa Chay, mùa sám hối và hoán cải, mùa tưởng niệm mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Kitô, chúng ta không đọc hoặc hát Alleluia trong các nghi thức phụng vụ.

 

Amen

Amen là chữ Do thái. Các tín hữu thời Cựu Ước thường dùng chữ Amen để kết thúc lời cầu nguyện của họ. Chúa Kitô cũng đã sử dụng, không những lúc Người cầu nguyện, mà còn cả trong lúc giảng dạy để nhấn mạnh, làm nổi bật chân lý Người nói : “Amen – Thật – Ta bảo thật các ngươi…” Chúng ta thường gặp ngôn thức này trong Tin Mừng.

Khi thưa Amen, người ta không chỉ bày tỏ ước muốn được như vậy, mà còn xác nhận một điều chắc chắn. Đó là trường hợp khi vị linh mục công bố : “Mình Thánh Chúa Kitô” và tín hữu thưa “Amen”. Chữ Amen ở đây có nghĩa “Vâng ! Tôi xác tín Chúa Kitô đến ngự trong tôi dưới hình bánh này”. Đó là một điều chắc chắn !

Khi chúng ta thưa Amen sau lời nguyện của linh mục chủ tế, điều đó không chỉ có nghĩa là ước muốn những lời cầu nguyện đó được chấp nhận, nhưng còn nói lên rằng : lời nguyện đó cũng là lời nguyện của chính chúng ta, và chúng ta muốn tháp nhập vào đó với hết tâm tình.

Hơn thế nữa, Amen diễn đạt đức tin của toàn cộng đoàn vào sự trung tín của Chúa. Người sẽ nhậm lời những gì cộng đoàn cầu xin với niềm tin tưởng. Bởi vì căn gốc của chữ Do thái này có ý nghĩa sự trung thành, trung tín. Như thế, khi thưa Amen, chúng ta tung hô sự trung tín của Chúa, như lời thánh Phaolô : “Xin Thiên Chúa là Đấng trung tín chứng giám cho rằng lời nói của chúng tôi đối với anh em, không phải là vừa “Có” lại vừa “Không”. Quả thế, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng mà chúng tôi đã rao giảng nơi anh em, […], nơi Người chỉ là “Có” mà thôi. Bởi chưng bao nhiêu lời hứa của Thiên Chúa đã thành “Có” ở nơi Người. Vì thế nhờ Người mà chúng tôi hô lên lời “Amen” tôn vinh Thiên Chúa” (2 Cor 1,18-20).

 

Bài giảng (hay bài diễn giảng)

Giảng ở đây có nghĩa là giảng Lời Chúa: linh mục chú giải về đoạn Tin Mừng vừa nghe, quảng diễn và áp dụng Lời Chúa trong đời sống hằng ngày.

Bài giảng là phần phụng vụ phải có trong các thánh lễ chúa nhật và lễ trọng, vì sau Công Đồng Vaticanô II, Giáo Hội luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của Tin Mừng, của Thánh Kinh trong thánh lễ cũng như trong đời sống Kitô hữu.

 

Bí tích

Danh từ bí tích (bí: kín, dấu kín không biết được; tích: dấu vết để lại) dịch từ chữ hy-lạp mysterion hoặc từ chữ la-tinh sacramentum.

Bí tích cũng còn được gọi là Nhiệm tích.

Sách “Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo” (1992) định nghĩa bí tích như sau: “Các bí tích là những dấu hiệu hữu hiệu của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập và được trao lại cho Giáo Hội để ban sự sống thần linh cho chúng ta. Các nghi thức hữu hình để cử hành các bí tích thì nói lên và thực hiện những ân sủng riêng của mỗi bí tích” (số 1131).

Bí tích là máng chuyển ơn Chúa cho chúng ta. Mọi bí tích đều là hành vi của Chúa Kitô được Giáo Hội cử hành qua nghi thức phụng vụ gồm sự vật, cử chỉ và lời nói kèm theo. Thí dụ: trong bí tích Rửa Tội, linh mục đổ nước ba lần trên đầu thụ nhân hoặc dìm thụ nhân ba lần trong giếng rửa, và đọc: “T…, cha rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Có tất cả bảy bí tích: Rửa Tội (hoặc Thánh Tẩy), Thêm sức, Thánh Thể, Hòa Giải (hoặc Giải Tội), Xức Dầu bệnh nhân, Truyền Chức, Hôn Phối.

 

Hiến tế tạ ơn

Hiến tế tạ ơn là một cách gọi khác của thánh lễ và lễ Misa. Từ ngữ này (dịch từ động từ hy-lạp eucharistein: tạ ơn) diễn tả rõ ràng mục đích chính của thánh lễ: cảm tạ và ngợi khen Chúa Cha nhờ Chúa Kitô, với Người và trong Người, cũng như sự kết hợp của Giáo Hội với các tác động này của Chúa Kitô.

 

Kinh Tin Kính

Có hai bản kinh Tin Kính: kinh Tin Kính các Tông Đồ và kinh Tin Kính Nicée. Dưới hình thức này hay hình thức khác, kinh Tin Kính được cộng đoàn đọc trong các thánh lễ Chúa nhật và lễ trọng sau bài Tin Mừng và bài giảng.

° Kinh Tin Kính các Tông Đồ, cũng gọi là Biểu Tín các Tông Đồ (symbole des Apôtres), là bản kinh Tin Kính xưa nhất, có từ thế kỷ thứ II. Bản này tổng hợp các công thức đã có trước đó. Từ thế kỷ thứ VI, bản này có hình thức như chúng ta thấy hiện nay. Đây là bản tuyên xưng những tín điều chính yếu nhất khi chịu phép Rửa.

° Kinh Tin Kính Nixêa do Công Đồng Nixêa (Nicée) chấp thuận vào năm 325 nhằm đối phó với lạc thuyết arianô chối bỏ thần tính của Chúa Giêsu Kitô. Sau đó bản này được Công Đồng Constantinople bổ túc vào năm 381 nhằm để xác quyết thần tính của Chúa Thánh Thần do nhiều bè rối chối bỏ, vì thế đôi khi người ta gọi bản này là kinh Tin Kính của các Công Đồng Nixêa-Constantinople. Giáo dân Việt Nam thường đọc bản này trong thánh lễ.

 

Kinh Vinh Danh

Bài thánh ca này đã có từ lâu đời cũng được gọi là “khúc hát thiên thần” (le cantique des anges). Giáo Hội, được đoàn tụ trong Chúa Thánh Thần, dùng kinh Vinh Danh để tôn vinh Chúa Cha và cầu khẩn Chúa Chiên Con. Kinh Vinh Danh được hát hay đọc vào phần đầu thánh lễ Chúa nhật (trừ Mùa Vọng và Mùa Chay), trong các lễ trọng, lễ kính và trong các dịp lễ khá long trọng. Người ta không biết tác giả là ai cũng như năm sáng tác, nhưng biết rằng kinh Vinh Danh đã có trong kinh sáng bên Đông Phương vào thế kỷ thứ IV.

 

Lễ Misa

Trong Sách Lễ Rôma, bản chính bằng tiếng la-tinh, để kết thúc thánh lễ, chủ tế đọc “Ite missa est”. Missa (do động từ la-tinh mittere: gửi đi) có nghĩa là sự trả về. Do đó “Ite missa est” có nghĩa là “Hãy đi, đây là lúc giải tán”, cũng như khi ta nói: “Thôi về đi, mọi việc đã xong rồi!” Đương nhiên, chúng ta biết công thức bằng tiếng Việt: “Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an” (xem câu hỏi số 34).

Từ thế kỷ thứ IV, chữ missa chỉ định toàn bộ thánh lễ. Từ đó, có tiếng Pháp Messe, tiếng Anh Mass, và tiếng Việt Lễ Misa.

 

Năm phụng vụ

Năm phụng vụ, bắt đầu từ Chúa nhật I Mùa Vọng (vào cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12, tùy theo năm) cho đến thứ bảy của tuần 34 Thường Niên, nhằm kể lại toàn bộ lịch sử ơn cứu độ và cuộc đời của Chúa Kitô mà lễ Phục Sinh là đỉnh điểm.

Mỗi lễ phụng vụ làm nổi bật một khía cạnh nào đó của mầu nhiệm cứu độ duy nhất.

Năm phụng vụ gồm các mùa sau đây, theo tuần tự:

° Mùa Vọng: khoảng 4 tuần trước lễ Giáng Sinh.

° Mùa Giáng Sinh: từ lễ Giáng Sinh tới cuối tuần lễ Hiển Linh.

° Mùa Thường Niên (phần I): từ Chúa nhật sau lễ Hiển Linh đến thứ tư Lễ Tro. Vì ngày lễ Phục Sinh không cố định nên Mùa này kéo dài từ 5 đến 9 tuần, tùy theo năm.

° Mùa Chay: gồm 40 ngày (không tính các ngày Chúa nhật), từ thứ tư Lễ Tro đến Chúa nhật Phục Sinh.

° Mùa Phục Sinh: gồm 50 ngày, từ Chúa nhật Phục Sinh đến Chúa nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

° Mùa Thường Niên (phần II): kéo dài từ 25 đến 29 tuần (tùy theo năm), từ lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đến Chúa nhật I Mùa Vọng. Năm phụng vụ mới lại bắt đầu. + Ngày lễ Phục Sinh được tính vào Chúa nhật đầu tiên sau trăng tròn đầu tiên của mùa xuân. Từ ngày lễ Phục Sinh này, người ta xác định được ngày của ba lễ khác: thứ tư Lễ Tro, 40 ngày trước đó (không tính các ngày Chúa nhật); lễ Thăng Thiên, 40 ngày sau (vào ngày thứ năm); lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, 50 ngày sau (vào ngày Chúa nhật).

 

Nhà Chầu, nhà Tạm.

Nhà Chầu hay Nhà Tạm là một chiếc tủ nhỏ chứa đựng Mình Thánh Chúa. Tùy kiến trúc từng nhà thờ mà Nhà Chầu được đặt tại gian cung thánh hoặc bên cạnh.

Theo lịch sử phụng vụ, việc giữ Mình Thánh Chúa trong Nhà Chầu, hay Nhà Tạm, trước tiên là để dành cho những người bệnh hoặc những người hấp hối sắp ra đi như “của ăn đàng”. Ngày nay, Giáo Hội tiếp tục giữ Mình Thánh Chúa trong Nhà Chầu để cho tín hữu có thể đến viếng và cầu nguyện trong ngày, ngoài những nghi thức phụng vụ chính thức. Đèn chầu, được đăït bên cạnh, ngày đêm thắp sáng nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô ở giữa dân Người.

 

Phụng vụ

Danh từ phụng vụ (phụng: vâng phục, tôn sùng; vụ: công việc) được dịch từ chữ hy-lạp leiturgia (ghép bởi danh từ ergon = công việc, và tĩnh từ leitos = công cộng) có nghĩa: việc công cộng có ích cho dân chúng. Trong quá trình lịch sử, danh từ leiturgia có thêm nhiều nghĩa khác nhau.

Theo tinh thần của Công Đồng Vaticanô II, phụng vụ là tác động linh thiêng, qua đó, và dưới một nghi thức, hành vi tư tế của Chúa Kitô, nghĩa là công cuộc thánh hóa con người và vinh danh Thiên Chúa, được thực hiện và tiếp tục trong Giáo Hội và bởi Giáo Hội.

Nói một cách đơn giản, phụng vụ chỉ định các nghi thức thờ phượng công cộng của Giáo Hội. Các nghi thức phụng vụ, theo định nghĩa, phải có sự chủ tọa của một thừa tác viên của Giáo Hội với sự tham dự tích cực của các tín hữu.

Ngoài ra danh từ phụng vụ còn có hai nghĩa khác nữa:

° bên Đông Phương, phụng vụ có nghĩa là chính thánh lễ.

° phụng vụ chỉ định môn học về các việc phụng tự khác nhau.
Thí dụ: thần học phụng vụ, phụng vụ Đông Phương, v.v…

Thánh lễ đồng tế:

Thánh lễ đồng tế do nhiều linh mục cùng cử hành, và dưới sự chủ tọa của một vị.

° Tại Tây Phương, trước thế kỷ thứ XIII, thánh lễ được đồng tế “âm thầm”, nghĩa là chỉ có vị chủ tế, là người có chức vụ lớn nhất, đọc kinh Tạ Ơn (Kinh nguyện Thánh Thể) mà thôi. Vào thế kỷ thứ XIII tại Rôma, các vị đồng tế cùng đọc kinh Tạ Ơn với Đức Giáo Hoàng, và mỗi vị cầm một bánh lễ trong tay của mình. Khoảng cuối thời Trung cổ, thánh lễ đồng tế không còn phổ thông nữa.

Công Đồng Vaticanô II (1962-1965) xác định giá trị cao cả của thánh lễ đồng tế, vì việc đồng tế biểu lộ cách thích đáng của chức linh mục và của hy tế, cũng như sự hợp nhất của toàn dân Chúa.

° Tại Đông Phương, thánh lễ đồng tế vẫn được duy trì từ xưa tới nay.

“Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !”

Bài hát này là bản tổng hợp của một số câu Kinh Thánh: (theo bản dịch mới)

° Thánh ! Thánh ! Chí Thánh ! Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn là Đấng Thánh (Is 6, 3; Kh 4, 8).

° Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa (Is 6, 3).

° Hoan hô Chúa trên các tầng trời (Mt 21, 9).

° Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa (Tv 117, 26; Mt 21, 9).

° Hoan hô Chúa trên các tầng trời (Mt 21, 9).

Câu trong Isaia (6, 3) gồm: “(Toàn trái) đất rạng ngời vinh quang Chúa”. Phụng vụ thêm chữ “trời”. Viễn ảnh trở nên bao la: cả trên trời và dưới đất, cả các thiên thần, các thánh và loài người, với muôn loài tạo vật, đồng thanh tung hô vinh danh Chúa Cha.

Theo sách Khải Huyền (4, 8), bài “Thánh ! Thánh ! Chí Thánh” là lời tung hô của các thiên thần và các thánh trên trời. Như thế, mỗi thánh lễ được cử hành làm cho chúng ta hướng về lời tán tụng muôn đời này.

 

 

 

Mục III: KỶ LUẬT THÁNH LỄ

Thánh Lễ là việc làm của Chúa Kitô, nên không thể không có một số điều thuộc kỷ luật Phụng vụ mà các linh mục hoặc giáo dân phải tuân hành. Hiến chế Phụng vụ ghi rõ: “Tuyệt đối, không ai, dù là linh mục được tự quyền thêm bớt hay thay đổi một điều gì trong Phụng vụ” (PV 22,3), vì Phụng vụ là việc của Chúa Kitô và của chung Giáo hội, nên người của Giáo hội phải tôn trọng để duy trì sự hiệp nhất này.

Dưới đây là một số điều thuộc kỷ luật Phụng vụ cần hơn:

1. Có thể cử hành Thánh Lễ và trao Mình Thánh ngày và giờ nào cũng được, trừ những trường hợp luật Phụng vụ không cho phép” (GL 931).

2. Linh mục không nên bỏ qua việc dọn mình xứng đáng trước khi dâng lễ và cảm ơn sau Thánh Lễ (GL 909).

3. Thánh Lễ phải cử hành ở nơi thánh, trên một bàn thờ đã cung hiến hay đã làm phép, trừ khi, trong trường hợp riêng, nhu cầu đòi hỏi cách khác, dù vậy , trong trường hợp ấy, phải cử hành ở nơi xứng đáng. Nếu cử hành Thánh Lễ ở ngoài nơi thánh, thì cử hành trên một chiếc bàn xứng đáng, có khăn phủ bàn và khăn thánh (GL 932).

 (Thánh Lễ cho một nhóm, hoặc tại tư gia:

Theo Văn thư Actio Pastoralis Ecclesiae, ban hành ngày 15 tháng Năm năm 1969, có những lý do và qui luật cho phép tổ chức lễ cho một nhóm hội hfdỏ để tĩnh tâm, nhu cầu mục vụ, gia đình tập hfdỏ, gia đình chung quanh bệnh nhân, thì Đấng Bản quyền có thể cho phép dâng lễ ngoài nơi thánh như Giáo luật qui định, nghĩa là “tại nơi xứng đáng, nhưng không tại giường ngủ”, tại nhà tư, miễn là cử hành trên chiếc bàn có khăn trải sạch sẽ, tôn kính).

4. Thánh Lễ phải được cử hành bằng bánh (làm bằng bột mì tinh tuyền), và còn mới để tránh hư mốc, và rượu (tự nhiên từ trái nho) không bị hư chua” (GL 924).

5. Linh mục Chủ tế được tự do chỉ lễ cho bất cứ người nào còn sống hay đã qua đời” (GL 901).

6. Trong khi cử hành Thánh Lễ, Phó tế và giáo dân không được phép đọc các lời nguyện, nhất là kinh Nguyện Thánh Thể, hay làm những công việc chỉ dành cho linh mục chủ tế” (GL 907).

7. Nếu không có lý do hệ trọng, linh mục không được bỏ bài giảng, trong những Thánh Lễ cử hành vào Chúa nhật và lễ buộc có dân chúng tham dự” (PV 52).

(Theo Ủy ban giải thích Giáo luật khoản 767,1 cho biết: Việc giảng trong nhà thờ dành cho linh mục và phó tế, không nhường cho giáo dân nào khác).

8. Bất cứ ai đã lãnh Bí tích Rửa tội, không bị luật cấm, đều có thể được Rước lễ (GL 912).

(Ai muốn rước lễ, phải kiêng ăn và uống, chỉ trừ nước lã và thuốc, ít là một giờ trước khi rước lễ. Linh mục nào dâng lễ 2 hay 3 lần một ngày, có thể ăn uống chút đỉnh trước lễ thứ 2 hoặc thứ 3, dù thời gian không đủ một giờ. Người cao niên, người đau yếu và cả người săn sóc bệnh nhân,  có thể được rước lễ, dù đã ăn uống chút đỉnh trong vòng một tiếng đồng hồ trước đó. (GL 919).

9. Không được rước lễ, những người bị vạ tuyệt thông, vạ cấm sau khi hình phạt đã tuyên kết, hay tuyên bố, và những người cố tình sống trong một nặng công khai (GL 915). Ví dụ: Sống như vợ chồng không có hôn phối.

10. Cha Sở có bổn phận canh chừng không cho các trẻ em rước lễ khi chúng chưa đủ trí khôn hoặc chưa chuẩn bị đủ (GL 914), nghĩa là chưa xưng tội lần đầu. Tuy nhiên, có thể cho trẻ em lâm cơn nguy tử rước lễ, nếu các em có thể phân biệt Mình Chúa Kitô với của ăn thông thường, và kính cẩn rước lễ (GL 913).

11. Mỗi ngày được rước lễ một lần, nếu dự thêm lễ nữa, thì được rước lễ lần nữa (GL 917), nhưng không được rước lễ lần thứ ba cùng ngày, trừ khi rước lần thứ ba như của Ăn đàng dành cho các tín hữu lâm cơn nguy tử (GL 921, 2).

12. Ai ý thức mình phạm tội nặng, mà chưa xưng tội trước, thì không được làm lễ hay rước lễ, trừ khi có lý do quan trọng và không có dịp tiện đi xưng tội. Trong trường hợp này, họ phải thống hối cách trọn và dốc lòng đi xưng tội sớm ngần nào có thể” (GL 916).

13. Thánh Lễ chiều thứ Bảy thay Chúa nhật: “Ai tham dự Thánh Lễ cử hành theo nghi lễ Công giáo bất cứ ở đâu, hoặc vào chính ngày lễ hay vào chiều hôm trước, thì người ấy đã chu toàn việc buộc dự lễ (GL 1248,1).

 

* Các linh mục lưu ý thêm vài điều sau, tuy không hay xảy ra, nhưng Giáo luật đã tiên liệu:

1. Các linh mục Công giáo không được đồng tế với các thừa tác viên của các giáo hội hay giáo đoàn không thông hiệp hoàn toàn với Giáo hội Công giáo (GL 933).

2. Các linh mục Công giáo muốn cử hành Thánh Lễ trong một đền thờ của giáo hội hay giáo đoàn không thông hiệp hoàn toàn với Giáo hội Công giáo, đòi linh mục ấy phải có phép rõ ràng của Bản quyền sở tại, và phải đề phòng mọi gương xấu (GL 933).

3. Khi có nhu cầu khẩn cấp, theo sự phán đoán của Đấng Bản quyền, các thừa tác viên Công giáo có thể ban các Bí tích (Thánh Thể, Sám hối, Xức dầu bệnh nhân) cho những Kitô hữu không hiệp thông đầy đủ với Giáo hội Công giáo, nhưng họ  phải tự động xin. Khi đó họ phải bày tỏ đức tin Công giáo đối với các Bí tích này, và họ phải được chuẩn bị tâm hồn đầy đủ.

 

 

 

B. PHỤNG VỤ GIỜ KINH

 

Mục I: THẦN HỌC PHỤNG VỤ CỦA CÔNG ĐỒNG VAITCANO II

 

DẪN NHẬP

Kể từ Công đồng Vatican II, cụm từ Kinh Phụng vụ[1]được chuyển nghĩa từ cụm từ Officium Divinum và được sử dụng cách thường xuyên trong cách gọi. Bản tiếng việt dịch là Kinh Nhật Tụng. Cụm từ này cũng nhằm thay thế cụm từ « Breviarium » hoặc « Breviarium Officii », vốn được sử dụng cách rộng rãi trong Giáo hội theo nghi thức Roma.

Giờ Kinh Phụng vụ « làm chứng cho những gì mà Giáo hội tin trong cầu nguyện, hôm nay cũng như hôm qua, nhưng nó được diễn tả trong một ngôn từ, một cách suy nghĩ, một đặc tính thần học của một thời kỳ »[2].

Phải khẳng định trước tiên rằng, Kinh Phụng vụ là lời cầu nguyện chung của tất cả Giáo hội ; nó không phải được dành riêng cho các tu sĩ và những người sống đời thánh hiến[3]. Đối với các hành động phụng vụ khác như Thánh Thể mà nó không thay thế, nhưng nó là một sự bổ túc. Các Giờ Kinh Phụng vụ thánh hiến tất cả chu kỳ của ngày và đêm ; nó giúp tập trung tất cả những hành động hằng ngày bởi lời cầu nguyện không ngừng và cho phép trả lời những giáo huấn của Đức Kitô, Đấng nối kết với chúng ta trong lời cầu nguyện ngày và đêm.

Những lời kinh được lưu truyền trải qua dòng thời gian, ngay cả khi nó được diễn tả bởi các hình thức khác nhau, vốn đã được đơn giản hoá ở Tây phương, như chỉ dạy của Công đồng Vatican II. Chẳng có sự khác biệt đáng kể giữa những nghi thức tây phương và đồng phương. Ngược lại, việc làm mới lại các Giờ Kinh Phụng vụ ở Tây phương đã diễn ra ở Công đồng Vatican II, giúp tìm thấy nguồn gốc của nó trong những hình mẫu ở đông phương.

 

I. NHỮNG NỀN TẢNG CỦA CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ

 

Các cộng đoàn kitô hữu tiên khởi đã mong muốn sống ý tưởng về một đời sống cầu nguyện liên lỉ, được hướng dẫn bởi Kinh thánh và đã được thực hành bởi chính Đức Kitô và bởi cộng đoàn tông đồ.

Đức Kitô đã dùng những tập tục của dân mà trong đó Người là thành phần nhưng Người không hài lòng với những tập tục này. Đối với Người, hành động thường nhật phải được nối kết chặt chẽ với lời cầu nguyện. Thánh Luca, tác giả Tin mừng thứ 3 khẳng định một cách rõ ràng nhất về đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu. Đức Kitô cũng chính Người đã tự bày tỏ như là biểu mẫu về đời sống cầu nguyện và mời gọi tất cả các môn đệ của Người cầu nguyện không ngừng và kiên trì, như một cử chỉ hướng về cánh chung (Lc 21,36).

Những tín hữu đầu tiên đã theo sát những thời gian về cầu nguyện như cách người Do thái đã làm, nhưng họ đã thêm vào đó một tinh thần mới được thích ứng bởi Đức Kitô : lời cầu nguyện đêm (kinh đêm) là một sự mới mẻ so với những nghi thức Do thái. Lời cầu nguyện của các tín hữu tiên khởi cần phải trở nên hợp lý, chuyên chăm và kiên trì. Những ý tưởng mà trong đó tồn tại sự trung thành của các tín hữu : những Giờ (kairos) là thời gian quan trọng nhắc nhở cho lời cầu nguyện liên tục. Những tác giả kitô hữu đầu tiên như Origène hoặc Tertullien khẳng định rất nhiều về lời cầu nguyện. Cầu nguyện không chỉ được nói đến đầu tiên đối với những người nhiệm nhặt, những tu sĩ hay những nhà đan tu ; nhưng quả thực, nó là một lời mời gọi cho tất cả mọi kitô hữu về việc thực hành cầu nguyện cách thường xuyên vào những giờ khắc đã định.

Một vài khoảng khắc của thời gian cầu nguyện được coi như bắt buộc và những giờ khác được xem cách đơn thuần như những giờ được tham khảo. Những giờ này cho phép để thực hành các lý tưởng đời sống cầu nguyện không ngừng. Sự khác nhau về thời gian được kiểm nghiệm bởi những bản văn của Cựu và Tân ước. Lời cầu nguyện cho thấy giá trị của nó, như khẳng định của Gioan Cassien : « gợi hứng bởi từ trong một phần lớn những bản văn và những cử chỉ làm nên Giờ Kinh Phụng vụ, lời nhắc nhở thường nhật về sự thông hiệp của ơn Cứu độ »[4].

Trong thế kỷ IVe, lời cầu nguyện theo Giờ được tổ chức hai hình thức cùng tồn tại : một cho những đan sĩ và các tu sĩ ; phần khác cho dân kitô hữu. Phần thư hai này có cấu trúc khác nhau nhưng được nhìn nhận như những phần bổ sung : và vì thế nó vẫn mang những giá trị đặc biệt của giờ kinh mà chúng không bị coi là hơn kém so với phần thứ nhất.

Vào thời Trung cổ, phần đông các tín hữu dần dần quên lãng các Giờ Kinh Phụng vụ vì nhiều lý do. Trước hết, họ không biết nhiều về ngôn ngữ latin : hoặc thật khó khăn để học thuộc lòng tất cả các giờ kinh, trừ khi họ sở hữu một cuốn sách nguyện với cái giá đắt đỏ (!). Hơn nữa, tầm quan trọng của thời khắc được dùng cho những giờ kinh lại cản trở những tín hữu phải làm việc.

Vào thế kỷ XIXe, giờ kinh nguyện được tái khám phá như lời cầu nguyện của dân kitô hữu, trước tiên bởi những Giáo hội mở đường cho Cải Cách. Thế kỷ tiếp theo, cộng đoàn Taizé đóng vai trò rất quan trọng trong sự kiện này khi giúp cho các vị khách đến thăm khám phá ra những Giờ kinh khác nhau.

Cũng cần nhắc lại rằng, trong nhiều thế kỷ, lời kinh theo Giờ đã bị nhiễu loạn bởi hai xu hướng đối nghịch nhau : một xu hướng muốn loại bỏ những chỉ dẫn về nhịp điệu của ngày và đêm ; xu hướng còn lại đã làm qúa tải về thời gian hoặc nội dung của Giờ kinh. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác.

Công đồng Vatican 2 đã cố gắng đưa vào trật tự trong khi đế ý đến việc làm cho hợp lý những giờ kinh nguyện trong ngày, tất cả được tôn trọng theo những đòi hỏi của đời sống hiện đại. Những kinh nguyện được chỉnh sửa cách kỹ càng và thêm hoặc bớt đi cho phù hợp. Trình tự của nó được đơn giản và nhất là có thể được cử hành bằng ngôn ngữ địa phương[5].

Các Giờ Kinh Phụng vụ diễn tả lời cầu nguyện chúng của Giáo hội, nó được công bố trong một nhóm (tất cả nhóm được qui tụ tạm thời hoặc được ấn định để cử hành các Giờ kinh), hoặc cá nhân[6]. Các giờ kinh không được cử hành bởi chỉ vì chính nó nhưng nói theo ngôn từ của Công đồng Vatican 2 : để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người. Nhất là, Giờ Kinh Phụng vụ cũng được cử hành nhân danh dân kitô giáo bởi những người đón nhận trách nhiệm là các giám mục, linh mục và phó tế nhưng cũng là các tu sĩ, kinh sĩ và nữ đan sĩ[7].

 

II. NHỮNG YẾU TỐ CHÍNH TẠO NÊN CÁC GIỜ KINH NGUYỆN

 

1.- Các thánh vịnh và thánh ca Kinh Thánh

Các thánh vịnh là nền tảng của Kinh Phụng vụ. Những người Do thái đã có một sự hiểu biết rất lớn về các thánh vịnh. Tuy vậy, cần khẳng định rằng, phương cách dùng của các kitô hữu thì vượt qua những gì của người Do thái, bởi vì nó tạo cho những thánh vịnh một giá trị kitô học và tạo nên một tiếng nói cho lời cầu nguyện tán tụng, cho sự suy ngẫm về sự hoàn hảo của Đấng thánh và sự diễn tả về nỗi niềm nhân loại.

Có rất nhiều phương thức đã được thực hành cho bài đọc thánh vịnh. Chẳng hạn phương thức chỉ định đọc thánh vịnh một cách liên tục như lectio continua tất cả các thánh vịnh : thánh Biển Đức yêu cầu đọc chung các thánh vịnh trong một tuần, nhưng kể từ Vatican II, chu kỳ của các thánh vịnh được bắt đầu trong bốn tuần. Phương thức khác có tích chất làm đặc biệt hoá những thánh vịnh vào trong những Giờ, chuyển biến theo tính liên tục của nó : điều này có thể được thực hiện theo giờ của ngày, đêm và theo chu kỳ thời gian. Cùng mục đích này, những điệp ca ở đầu mỗi thánh vịnh cho phép giải thích tầm quan trọng về một thánh vịnh được chọn cho một thời gian phụng vụ thích hợp.

Những Thánh vịnh trước hết là những bài thơ. Chúng được hát trong một hành vi ca tụng hoặc bằng một giọng solo hay với tất cả cộng đoàn (lối hát đối đáp). Hình thức hát vinh tụng ca « Gloria Patri… » vào phần cuối của thánh vịnh không phải là một sự mới thêm vào: nó đã xuất hiện từ thế kỷ IVe và được thích ứng bởi tất cả các luật đan viện latin. Bài giảng, các tước hiệu, những lời cầu nguyện tổng hợp và những câu điệp ca nhằm giúp hiểu ý nghĩa của các thánh vịnh và giúp cầu nguyện.

Cũng vậy, những yếu tố khác tạo nên Giờ Kinh Phụng vụ : những bài ca Kinh thánh (những bài ca này rất phố biến trong thời cổ đại, nó xuất hiện nhiều trong phương thức dùng của dòng Biển Đức và trong kinh nguyện Roma). Một điểm khác, những bài ca được biên soạn có tính văn chương được coi như là kéo dài việc hát thánh vịnh, trong khi đó những bài đọc và những lời cầu nguyện lại thuộc về một thể loại khác.

Những bài ca Cựu ước, tựa như những nghi thức Đông phương hay Tây phương, được giới thiệu nhất là trong những lời cầu nguyện ban sáng và trong những giờ Canh thức. Những bài ca Tin mừng được sắp đặt cách trật tự hơn giữa các giờ kinh khác nhau. Nhờ Công đồng Vatican II, những bài ca Tân ước đã được thêm vào : Khải huyền, Các thư của thánh Phêrô, của thánh Phaolô và ngay cả từ lá thư gởi cho Timôthê.

Những bài ca có tính văn chương được biên soạn là những « bài hát vốn chẳng phải là những thánh vịnh theo qui điển, cũng không phải là những bài ca Kinh thánh, nhưng nó tạo nên một phần của việc cử hành phụng vụ : thánh thi, những câu đối đáp và nhưng điệp ca »[8].

Sự phân biệt các cách đọc thánh vịnh thì không đơn giản. Cha đẻ biên soạn các thánh thi là thánh Ephrem, được đã chuyển dịch sang tiếng Hy lạp bởi Romanos le Mélode. Ở Tây phương latin, thánh Ambroise (không phải là thánh Hilaire) được coi như người đặt nền tảng cho các cung điệu của các thánh thi. Ngài cũng muốn mở rộng ra cho tất cả dân chúng khi thực hiện công việc này. Các bài thánh thi của ngài được đón nhận bởi các tu sĩ dòng Biển Đức và Giáo hội Roma : sự thành công của các thánh thi chẳng thể chối cãi được.

Những bài thánh thi đòi hỏi trả lời cho nhiều những yêu cầu mà nó vẫn còn giá trị cho ngày nay : để có một giá trị âm nhạc và văn chương hoặc đối với cái nhìn về tín lý và về khía cạnh công cộng. Trong thời gian áp dụng những cải tổ phụng vụ (1971), những nhà thơ và nhạc sĩ được mời gọi soạn thảo những thánh thi bằng ngôn ngữ địa phương, nhưng họ cần phải được chấp nhận bởi Hội Đồng Giám mục trước khi công bố các ấn phẩm của mình.

Việc cải tổ năm 1971 đã lưu giữ hình thức Roma được giới thiệu trong các giờ kinh gồm một bài đọc Kinh thánh, giáo phụ hay một bài hạnh tích về một vị thánh. Những bài đọc Kinh thánh không có chỗ trong phụng vụ Đông phương. Công đồng Vatican II đã đề nghị một chu kỳ các bài đọc trên hai năm mà tôn trọng những sách của Năm phụng vụ và cho phép đi theo toàn bộ một năm lịch sử ơn cứu độ. Truyền thống đọc các phần chú thích Kinh thánh trong giờ kinh đã xuất hiện ở Đông phương. Bên Tây phương, nó có thể đã được giới thiệu bởi thánh Biển Đức. Một sự tái thiết tập toàn bộ được thực hiện ở Vatican II. Một danh mục được mở rộng bởi vì lúc ấy các bài đọc Kinh thánh đã trở nên thường nhật. Như vậy, những bài đọc không còn giới hạn các Nghị phụ và các vị này đã « mở một lối đi vào sự phong phú của Di sản thiêng liêng của Giáo hội ». Ở Đông phương, chẳng có bài đọc hạnh các thánh nào đọc, trong khi đó ở Tây phương lại là một thực hành thường nhật. Tuy nhiên, những bản văn về đời sống các thánh thường không dựa trên nền tảng lịch sử, vì thế, việc cải tổ vào năm 1971 đã loại bỏ nhiều bản văn mà chỉ được dùng những bản văn có nguồn gốc rõ ràng và vững chắc.

 

2.- Nghi thức

Ở Đông phương, những nghi thức thì rất là đa dạng cả về số lượng và sự lập lại các Giờ Kinh cũng như về nội dung : nghi thức Ai-Cập và Cappadoce thì khác với nghi thức Syria đông phương và nghi thức Palestin, Antioche và Cappadoce thế kỷ IVvà Ve, về kinh nguyện byzantin và arménien hoặc nghi thức Syria tây phương và Maronite.

Đời sống đan tu tây phương có một kinh nghiệm lâu dài nhất về Giờ Kinh Phụng vụ, nó thể hiện sự khác hơn so với lời cầu nguyện tại nhà thờ giám mục, nghĩa là lời cầu nguyện ban sáng và buổi tối. Quy luật của thánh Biển Đức về lời cầu nguyện được coi như một chứng tá đầy nỗ lực cả về văn bản lẫn sự tương hợp. Nó được thể hiện rất rõ trong Kinh nguyện Roma cho đến đêm trước Công đồng chung Vatican II[9]. Người ta cũng đã muốn làm giảm bớt sự nặng nề và dài của nó. Quả vậy, từ thế kỷ XVIe, có nhiều xu hướng muốn cải tổ được thực hiện nhưng nó đã không ngừng trở lại sự cổ xưa bởi những thêm thắt mới mẻ. Một cuộc cải tổ sâu rộng chỉ được bắt đầu sau thế chiến thứ hai và mang lại sự thành công nhờ Công đồng Vatican II : những điểm chính được viết trong Institutio generalis và trong Liber Liturgiae Horarum.

Với việc cải tổ này, một trình tự về Giờ kinh được xây dựng. Mỗi giờ có những đặc điểm riêng của nó. Giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều là hai giờ kinh quan trọng bậc nhất. Theo việc cải tổ, mỗi giờ được gắn kết với một mầu nhiệm của Đức Kitô. Những thánh vịnh luôn luôn có một sự diễn giải kitô học, đây là điều mới mẻ so với kinh nguyện Roma, nhưng là một ý tưởng cổ xưa[10].


3.- Cấu trúc

– Kinh Sáng

Giờ Kinh Sáng là lời cầu nguyện của kitô hữu bắt đầu một ngày mới, vì thế, luôn luôn có một thánh vịnh liên quan đến buổi sáng. Kinh Sáng được hát vào lúc ánh mặt trời thức dậy và được coi như biểu tượng của Đức Kitô : chúng nhắc lại biến cố Phục sinh của Đức Kitô. Nó cũng khẳng định về sự hài hòa của Đấng Tạo dựng và về sự xuất hiện của Ngày hy vọng. Kinh Sáng trước hết là thời gian ca tụng Đấng thánh, do vậy những bài ca thánh vịnh là phần đặc biệt quan trọng. Ánh sáng ở đây có ý nghĩa đặc biệt : biểu tượng của Đức Kitô.

Kể từ thế kỷ IVe, những lời cầu nguyện cuối cùng cũng trở nên đặc biệt : nó bao gồm những ý hướng tương lai với những câu trả lời khuôn mẫu (chẳng hạn như Kyrie eleison), kế đến những lời cầu nguyện chính và phần thêm vào của người cử hành cho một lời cầu nguyện hoặc một lời tổng nguyện. Bài đọc Kinh thánh không có hệ thống : nó có thể được đi theo bằng một bài giảng.

– Kinh Chiều

Kinh Chiều được diễn ra vào lúc mà con người kết thúc công việc trong ngày và khi các ngọn đèn đã được thắp lên. Lời cầu nguyện ban chiều nhắc nhở cuộc Thương khó và là một hành động tạ ơn vì sự hài hoà trong vũ trụ. Đó cũng là những lời cầu nguyện đợi chờ sự trở lại của Thiên Chúa (parousia). Cấu trúc của Kinh Chiều được thực hiện năm 1971 chỉ giữ lại rất ít những yếu tố cổ : bản văn được trích từ Tân ước, nhưng bài thánh ca, bài đọc có thể ngắn hoặc dài. Những phần phụng vụ khác có những đặc tính quan trọng khác.

 

– Kinh Sách (canh thức hay kinh đêm)

Kinh Sách luôn có một tầm quan trọng trong phụng vụ kitô giáo vì nó cho thấy sự đợi chờ Thiên Chúa. Nó được đặc tính hóa bởi những bài đọc kinh sách và cho phép suy niệm từ Kinh thánh. Vào những ngày lễ, kinh sách có thể được kéo dài như một giờ Canh thức. Kinh nguyện này tập trung duy nhất vào mầu nhiệm đặc biệt của Đức Kitô. Công đồng Vatican II cho phép đọc giờ kinh này vào những thời khắc thuận tiện trong ngày[11].

 

– Giờ kinh đầu tiên

Giờ kinh này đã bị loại bỏ vì nó được coi như một giờ kinh Sáng khác[12]. Ngược lại giờ thứ 3, thứ 6 và 9 được giữ vì chúng nhắc đến ý tưởng ban đầu của lời cầu nguyện liên lỉ, khi tưởng nhớ cuộc Thương khó của Đức Kitô và việc công bố Tin mừng phục sinh. Chỉ một trong ba giờ khắc này được cử hành (trừ khi đối với những ai muốn có một đời sống chiêm niệm hoặc trong thời gian tĩnh tâm) : vì điều này mà chúng ta gọi đó là hora media. Giờ thứ ba nhắc nhở sự Hiện Xuống và cho phép cầu nguyện cho các ơn huệ của Chúa Thánh Thần ; giờ thứ Sáu nhấn mạnh đến việc Chúa chịu đóng đinh và giờ thứ 9 nhấn mạnh đến cái chết cứu chuộc của Đức Kitô.

 

 

– Giờ Kinh Tối

Kinh Tối là giờ kinh cuối cùng của một ngày. Nó là thời gian cầu nguyện thân mật và được dâng hiến cho mầu nhiệm Đức Kitô và hoàn toàn tin tưởng vào Đức Kitô.

 

III. MỘT VÀI KHÍA CẠNH THẦN HỌC VỀ GIỜ KINH PHỤNG VỤ

Thần học về Giờ Kinh Phụng vụ chỉ xuất hiện từ Công đồng Vatican II. Thần học này nhấn mạnh đến hai chiều kích quan trọng : trước hết, nhằm diễn tả « mầu nhiệm Thánh thể mà nó trả dài trong tất cả một ngày » ; kế đến, chỉ  cho thấy « cấu trúc của các Giờ Kinh Phụng vụ là đối thoại : Thiên Chúa nói với dân người và dân trả lời trong và bởi Đức Kitô »[13].

Giờ Kinh Phụng vụ là một phụng ca ca tụng Thiên Chúa và thánh hóa con người, là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống đạo đức kitô hữu[14]. Lý do của việc ca tụng đó là nhắm vào cuộc Nhập thể của Đức Giêsu mà trong đó được gắn kết với biển cố Phục sinh. Hai ý nghĩa này được hòa trộn trong lời tạ ơn, chúc tụng và thánh hiến. Nó không lệ thuộc vào bí tích Thánh Thể nhưng nó nối kết khăng khít với Thánh Thể mà sự tươi sáng được chiếu giãi trên nó : vì thế Thánh Thể là « đỉnh điểm của hành vi phụng thờ cuả Giao ước mới »[15].

Lời cầu nguyện này hướng đến Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị. Trong khi Thiên Chúa không chỉ nói với con người qua những bài đọc mà con nới bởi những thánh vịnh và lời cầu nguyện. Bí tích thánh tẩy đã tạo nên những điều kiện về cuộc đối thoại này và nó cũng tạo nên những khả năng tốt nhất nhờ việc chiêm ngẫm của Đức Kitô. Tương tự, hành động phụng vụ này được cử hành khi tưởng nhớ về Đức Kitô và nhằm làm cho thành hiện tại. Vì vậy, Giáo hội tham dự vào mầu nhiệm Cứu độ được hiện thực một cách liên tục, và Giờ Kinh Phụng vụ là « tưởng nhớ hằng ngày cách liên tục về các mầu nhiệm ». Thần học Công giáo đã chịu đau khổ cho đến Công Đồng Vatican 2, trong một tình trạng thiếu trình bầy liên quan đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong mối thông hiệp với ơn Cứu độ. Giờ Kinh Phụng vụ là một lời ca tụng và một lời cầu xin ân sủng Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần vì thế phải được có một chỗ đứng đặc biệt quan trọng, vì Người được sai đến và thực hiện những gì liên quan đến sự Hiệp nhất và Thánh hóa. Đức Trinh Nữ Maria cũng có vai trò chuyển cầu và các thiên thần giống như các thánh cũng có một vị trí xứng đáng.

Vì vậy, cũng cần ghi nhớ rằng, Giờ Kinh Phụng vụ phải được trở thành một lời cầu nguyện cá nhân : nó được ví như một con đường, là trường dạy cầu nguyện và là nguồn mạch của đời sống đạo đức. Cầu nguyện cách liên tục, phải được nhìn nhận hợp với một vị trí trong những hoạt động của đời sống thường nhật của chúng ta mà mỗi cá nhân không thể làm ngơ. A.G. Martimort chỉ ra rằng, ngày nay kitô hữu có thể bị cám dỗ thích lời cầu nguyện cá nhân mà không liên quan đến lời Kinh Phụng vụ như nguồn mạch để kín múc những ơn ích. Không thể có sự nhường bước cho sự ước muốn này, ngược lại, hãy tận dụng kinh nghiệm này để chú ý đến giá trị của phụng vụ : Giờ Kinh Phụng vụ cho phép vượt qua những cảm mến cá nhân để hướng đến một lời cầu nguyện chung của Giáo hội, và dành cho nó một vị trí xứng đáng đặc biệt. Khi cử hành các Giờ Kinh Phụng vụ, điều này cho phép chiêm niệm một cách liên tục và tốt hơn về công trình của Thiên Chúa trong thế giới. Cuối cùng, đó là một hành vi tạ ơn.

————————————————–

Chú thích:

1. Catechesisme de l’eglise catholique (1992), số 1174-1178.

2. Concile oecumanique Vatican II, Const. Sacrosanctum concilium, Paris, Centurion, 1967.

3. Centre national de pastorale liturgique, La présentation générale de la liturgie des Heures. Prière du temps présent : comment s’y retrouver ? Paris, Cerf, Desclée-Mame, 1999.

4. De Reynal, Théologie de la liturgie des Heures, Paris, Beauchesne, 1978.

5. La Maison-Dieu, 95/1968 : « L’office divin aujourd’hui ».

6. Martimort A.G, L’Eglise en prière, vol. 4 : La liturgie et le temps, édition nouvelle, Paris, Desclée, 1983,

7. Taft Robert, La liturgie des heures en Orient et en Occident (Bản văn gốc : The Liturgy of the Hours in East and West. The Origins of the Divine Office and its meaning for today, St. John’s Abbey, Collegeville, 1986), Brepols, 1991.

 

 

[1] Xem A.G Martimort, L’Eglise en prière, vol. 4 : La liturgie et le temps, édition nouvelle, Paris, Desclée, 1983, tr. 171-172. Thánh Biển Đức gọi Giờ Kinh Phụng vụ là Opus Dei.

 

[2] Xem De Reynal, Théologie de la liturgie des Heures, Paris, Beauchesne, 1978, tr. 115. Xem thêm Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ, số 83-84.

[3] Paul VI, « Const. apostolique Laudis canticum », trong La présentation générale de la liturgie des Heures, sđd, tr. 109.

[4] Xem De Reynal, Théologie de la liturgie des Heures, Paris, Beauchesne, 1978, tr. 187.

[5] Xem Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ, số 101.

[6] Xem Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ, số 83-85.

[7] Xem Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ, số 95-98; xem thêm Centre national de pastorale liturgique, La présentation générale de la liturgie des HeuresPrière du temps présent : comment s’y retrouver ? Paris, Cerf, Desclée-Mame, 1999, số, 28-32.

[8] Xem De Reynal, Théologie de la liturgie des Heures, Paris, Beauchesne, 1978, tr. 228.

[9] Xem chẳng hạn, Robert Taft, La liturgie des heures en Orient et en Occident (Bản văn gốc : The Liturgy of the Hours in East and West. The Origins of the Divine Office an dits meaning for today, St. John’s Abbey, Collegeville, 1986), Brepols, 1991, 209-230.

[10] Xem Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ, số 89a, 100 ; Centre national de pastorale liturgique, La présentation générale de la liturgie des HeuresPrière du temps présent : comment s’y retrouver ? Paris, Cerf, Desclée-Mame, 1999, số, 37-40.

[11] Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ, số 89.

[12] Như trên, số 89d.

[13] Xem A.G. Martimort, sđd, tr. 242.

[14] Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ, số 90.

[15] Xem Vatican II, Const. Lumen Gentium, số 11.

 

 

 

Mục II: CỬ HÀNH PHỤNG VỤ TRONG HỘI THÁNH

 

Tại sao Hội Thánh cử hành phụng vụ? [4]

“Ai tin trong lòng thì được nên công chính,

Tuyên xưng ra ngoài miệng thì được cứu độ”

 

Giáo hội là Dân Thiên Chúa. Dân thì có bổn phận thờ phượng và ca ngợi Chúa mình. Giáo hội chu toàn bổn phận này nhờ Phụng vụ.

Phụng vụ là những nghi thức trong quy định gồm lời nói, việc làm để thể hiện lòng tôn kính Thiên Chúa. Như trong quan hệ xã hội người ta phải bày tỏ bằng lời nói, việc làm, cử chỉ, xã giao, thì trong nghi thức Phụng vụ cũng có những cử chỉ như quỳ lạy, bái gối, chắp tay cung kính, thể hiện lòng thần phục suy tôn Thiên Chúa. Như thế, phải có nghi thức Phụng vụ vì đó là cách thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với Thiên Chúa. Phải có nghi thức phụng vụ để Thiên Chúa Ba Ngôi tiếp tục thực hiện công trình cứu chuộc là thi ân giáng phúc cho con người. Giờ đây, chúng ta sẽ bàn đến việc cử hành các bí tích theo truyền thống phụng vụ. Giáo lý căn bản về việc cử hành bí tích sẽ trả lời các vấn nạn đầu tiên về đề tài này:

– Ai cử hành phụng vụ?

– Cử hành phụng vụ như thế nào?

– Cử hành phụng vụ khi nào?

– Cử hành phụng vụ ở đâu?

 

1. Ai cử hành phụng vụ?

Theo như chúng ta được biết, phụng vụ là hoat động của Đức Giêsu toàn diện nghĩa là của Chúa Kitô và Hội thánh Người, mà mỗi tín hữu là chi thể. Vì thế, những ai hôm nay đang cử hành phụng vụ qua các dấu chỉ hữu hình, là đã tham dự vào mầu nhiệm thiên quốc, là làm nên một cộng đoàn phụng vụ. Chính cộng đoàn này cử hành phụng vụ, trong đó không ai là diễn viên, cũng không ai là khán giả. Tất cả đều cử hành và tham dự phụng vụ theo cách thế riêng của từng người: linh mục cử hành và tham dự theo cách thế của thừa tác viên chức thánh; tu sỹ giáo dân cử hành và tham dự theo cách thế và phận vụ của cộng đoàn.

Chúng ta hãy nhớ “khi các nghi lễ, theo bản chất đặc biệt của chúng được cử hành cộng đồng với sự tham dự đông đảo và linh hoạt của giáo dân thì nên nhớ rằng phải quý chuộng việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành đơn độc riêng rẽ”.

Toàn thể cộng đoàn, nghĩa là Thân Thể Chúa Kitô kết hợp với thủ lãnh của mình, cùng cử hành phụng vụ vì, nhờ Bí tích rửa tội, mỗi tín hữu được tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Kitô để cùng với Chúa Kitô cử hành Phụng vụ, đó là chức tư tế chung. Trong tư cách là tư tế chung, người kitô hữu được cùng Hội thánh cử hành và tham dự việc thờ phượng chính thức của Hội thánh trong phụng vụ dâng lên Thiên Chúa.

Để giúp các tín hữu thực thi chức tư tế cộng đồng của mình, còn có những tác vụ đặc biệt khác. Những người đảm nhận các tác vụ này không có chức thánh. Phận vụ của họ được các giám mục xác định tùy theo truyền thống phụng vụ và nhu cầu mục vụ. Ngay cả những người giúp lễ, đọc sách, dẫn giải và những người thuộc ca đoàn cũng chu toàn tác vụ phụng vụ đích thực. Vì vậy, trong cử hành các bí tích, toàn thể cộng đoàn đều tế tự, mỗi người tùy theo phận vụ của mình. Trong các cử hành phụng vụ, thừa tác viên hay mỗi tín hữu chu toàn phận vụ của mình, chỉ là và làm trọn vẹn những gì bản chất sự việc và những quy tắc phụng vụ quy định cho mình.

 

2. Cử hành phụng vụ như thế nào?

Trong các cử hành phụng vụ, chúng ta luôn thấy 2 yếu tố nổi bật: Dấu chỉ và biểu tượng; Lời và hành động. Theo đường lối sư phạm của Thiên Chúa, ý nghĩa của dấu chỉ và biểu tượng bắt nguồn từ trong công trình sáng tạo và trong nền văn hóa nhân loại, được xác định trong các biến cố của Cựu ước và được mạc khải trọn vẹn trong con người và hoạt động của Đức Kitô.

Trong đời sống nhân loại, dấu chỉ và biểu tượng chiếm một chỗ quan trọng. Con người một thụ tạo vừa có thân xác, vừa thiêng liêng. Vì có tính xã hội nên con người cần dấu chỉ và biểu tượng để giao tiếp với tha nhân qua ngôn ngữ, qua cử chỉ và hành động. Trong tương quan với Thiên Chúa cũng thế.

Thiên Chúa nói với loài người qua các thụ tạo hữu hình. Vũ trụ, ánh sáng và đêm tối, gió và lửa, nước và đất, cây và trái đều nói về Thiên Chúa, là biểu tượng cho sự cao cả đầy khôn ngoan Thượng trí và gần gũi của Thiên Chúa. Cũng vậy, những dấu chỉ, những biểu tượng trong đời sống xã hội, như việc thanh tẩy và xức dầu, bẻ bánh và chia sẻ chén rượu có thể diễn tả việc Thiên Chúa hiện diện và thánh hóa cũng như việc con người bày tỏ lòng tri ân Đấng Sáng Tạo.

Khi đến trần gian, Chúa Giêsu Kitô đã dùng những hình ảnh trong sinh hoạt đời thường của con người để giúp họ hiểu về Nước Trời; chính Người đã thực hiện các phép lạ qua những cử chỉ biểu tượng và dấu chỉ thể lý (Ga 9,6)

Ngày nay, Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện công cuộc thánh hóa ngang qua các dấu chỉ bí tích. Các dấu chỉ này được lấy ra từ những sinh hoạt hàng ngày trong đời sống.

Cử hành phụng vụ là thực hiện cuộc gặp gỡ đối thoại giữa Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con cái. Cuộc gặp gỡ được thể hiện qua lời nói và hành động. Vì thế trong cử hành phụng vụ, Lời Chúa và những cử chỉ gắn liền với nhau. lời diễn tả ý nghĩa của hành động, và hành động thực hiện nội dung của Lời. Các hành động biểu trưng tự nó đã là một ngôn ngữ, nhưng cần có Lời Chúa và việc đáp trả trong đức tin đi kèm và làm cho những hành vi này nên sống động. Những hoạt động phụng vụ biểu thị những gì Lời Chúa muốn diễn đạt: vừa là sáng kiến ân sủng của Thiên Chúa, vừa là lời đáp trả trong đức tin của Dân Chúa.

Lời nói và hành động trong Phụng vụ vừa là dấu chỉ gắn liền với giáo huấn, vừa liên kết với nhau để thực hiện điều chúng biểu thị. Chúa Thánh Thần không chỉ khơi dậy đức tin để các tín hữu hiểu được Lời Chúa; nhưng qua các Bí tích, Người còn thực hiện “những kỳ công” của Thiên Chúa được Lời Chúa loan báo. Công trình của Chúa Cha được Chúa Con yêu dấu hoàn tất nay Chúa Thánh Thần làm cho hiện diện và thông ban cho các tín hữu.

Kế đến, Thánh ca và thánh nhạc góp phần với Lời nói và hành động của phụng vụ để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu (x.SC 112). Sự hòa hợp của các dấu chỉ (thánh ca, thánh nhạc, lời nói và hành động) càng diễn cảm và phong phú hơn nếu được diễn tả bằng nét đẹp văn hóa riêng của cộng đoàn dân Chúa đang cử hành phụng vụ (x.SC 119). Ảnh tượng thánh, đặc biệt các ảnh tượng dùng trong phụng vụ, chủ yếu trình bày Chúa Kitô. Ảnh tượng không thể minh họa Thiên Chúa vô hình và khôn tả; nhưng việc Con Thiên Chúa nhập thể đem lại cho ảnh tượng một vai trò tôn giáo mới.

Tất cả các dấu chỉ dùng trong Phụng vụ đều quy về Đức Kitô. Các ảnh tượng về Đức Mẹ và các thánh cũng vậy. Qua các ảnh tượng, chúng ta thấy con người “được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa”, đã được biến đổi “nên giống Thiên Chúa”, và cùng với các thiên thần được quy tụ trong Đức Kitô.

 

3. Cử hành phụng vụ khi nào?

Trong đời sống thường ngày, khi hoàn cảnh cho phép, chúng ta thường hay mừng các ngày đáng ghi nhớ trong năm chẳng hạn như sinh nhật, lễ giỗ hoặc kỷ niệm ngân khánh, kim khánh v.v. Có một số ngày rất quan trọng chúng ta không nên quên chẳng hạn sinh nhật của người thân, hoặc là ngày giỗ của cha mẹ. Nhớ đến ngày sinh của một người, chứng tỏ rằng mình vẫn còn quan tâm đến người đó. Tổ chức lễ giỗ để tưởng nhớ và cầu nguyện cho ông bà hay cha mẹ nói lên lòng hiếu thảo và cũng là bổn phận của con cháu. Tương tự như trên, Hội Thánh ý thức bổn phận ca tụng công trình cứu chuộc của Đức Kitô bằng việc tưởng niệm các biến cố cứu độ vào những ngày ấn định trong năm.

 

Lịch Phụng vụ (GL 1163-1165)

Từ khi có luật Môse, Dân Thiên Chúa căn cứ vào lễ Vượt qua để ấn định các đại lễ nhằm tưởng niệm những kỳ công của Thiên Chúa Cứu độ, tạ ơn Người, giữ mãi kỷ niệm và truyền lại cho các thế hệ sau. Trong thời đại của Hội Thánh, Phụng Vụ mang dấu ấn mới mẻ của mầu nhiệm Đức Kitô. Mỗi tuần vào ngày Chúa Nhật, Hội Thánh tưởng nhớ việc Chúa Phục Sinh. Mỗi năm một lần, Hội Thánh cử hành hết sức trọng thể cuộc Thương Khó hồng phúc và Phục Sinh vinh hiển của Chúa Giêsu. Hội Thánh quảng diễn trọn mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô qua chu kỳ một năm.Trong khi cử hành những mầu nhiệm cứu chuộc như thế, Giáo Hội rộng mở cho các tín hữu nguồn phong phú về nhân đức và công nghiệp của Chúa Giêsu, khiến cho những mầu nhiệm này hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với các mầu nhiệm sẽ được đầy tràn ơn cứu chuộc .

 

Năm Phụng vụ (GL 1168-1171)

Thời gian của cả năm trước và sau Tam Nhật Vượt Qua được Phụng Vụ thánh hóa thành “năm hồng ân của Chúa”(Lc 4:19). Năm Phụng Vụ khai triển mầu nhiệm Vượt Qua dưới nhiều khía cạnh, đặc biệt là chu kỳ các lễ xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh. Năm Phụng Vụ gồm có các mùa sau đây:

1. Mùa Vọng: Là mùa chuẩn bị mừng mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô. Mùa Vọng có bốn tuần lễ, chia làm hai phần: từ Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng đến ngày 17 tháng 12, Phụng Vụ đặt trọng tâm vào việc trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang, tức là ngày tận thế; từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 12, Phụng Vụ hướng về biến cố Con Chúa xuống thế làm người.

2. Mùa Giáng Sinh: Là mùa kính nhớ việc Chúa Giêsu sinh ra và tỏ mình ra lần thứ nhất. Trong mùa này chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh, lễ Thánh Gia Thất, lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, lễ Hiển Linh, và lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa.

3. Mùa Chay: Hai đặc tính của mùa này là sám hối và nhớ lại, hoặc dọn mình chịu phép Rửa Tội. Trong mùa này, Hội Thánh chuẩn bị các người dự tòng để họ chịu phép rửa trong đêm vọng Phục Sinh, và nhắc nhở các tín hữu canh tân bí tích rửa tội họ đã lãnh nhận. Mùa Chay kéo dài sáu tuần lễ, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro cho tới chiều Thứ Năm Tuần Thánh. Những hình thức hãm mình được khuyến khích. Đặc biệt, giáo luật buộc ăn chay kiêng thịt vào hai ngày Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, cùng việc kiêng thịt tất cả các ngày Thứ Sáu.

4. Tam Nhật Vượt Qua: Ba ngày này được coi là tột đỉnh của năm Phụng Vụ, bắt đầu thánh lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh cho đến Kinh Chiều Chúa Nhật Lễ Phục Sinh. Biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu, tức là cuộc tử nạn và phục sinh của Người được cử hành hành một cách long trọng. Trong đêm canh thức Phục Sinh, các dự tòng được chịu phép Rửa và các tín hữu được canh tân ơn phép Rửa của mình.

5. Mùa Phục Sinh: Là mùa hân hoan, vì nhờ tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô mà chúng ta được sự sống mới. Mùa này kéo dài bảy tuần lễ trong đó có lễ Phục Sinh, lễ Chúa Lên Trời và lễ Hiện Xuống.

6. Mùa thường niên: Gồm 33 hoặc 34 tuần lễ trong năm. Trong mùa này, Hội Thánh không cử hành mầu nhiệm đặc biệt nào của Chúa Kitô, nhưng tôn kính chính mầu nhiệm Chúa Kitô trong sự sung mãn của Người. Mùa này bắt đầu từ thứ hai sau lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa cho đến thứ ba trước Mùa Chay. Phần còn lại bắt đầu từ Thứ Hai sau lễ Hiện xuống cho đến trước Chúa Nhật I Mùa Vọng.

 

Ngày Chúa Nhật (GL 1166-1167)

Tính theo tuần lễ của Do thái thì ngày Chúa Phục Sinh là ngày thứ nhất trong tuần. “Ngày thứ nhất” gợi lại ngày khởi đầu của công trình sáng tạo, giờ đây mang một ý nghĩa mới, tức là khởi đầu của công trình cứu độ. Do đó, theo truyền thống tông đồ bắt nguồn từ chính ngày Chúa Kitô sống lại, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Phục Sinh vào ngày này, ngày thật đáng gọi là ngày của Chúa, hay ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật là ngày tuyệt hảo để cộng đoàn tín hữu tập họp nhau cử hành Phụng Vụ, “để nghe Lời Chúa và tham dự vào bí tích Thánh Thể, để kính nhớ sự thương khó, phục sinh và vinh quang của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Người đã dùng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô mà tái sinh chúng ta từ trong kẻ chết.”

 

Lễ kính các thánh (GL 1172-1173)

Trong khi cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô theo chu kỳ hằng năm, Hội Thánh cũng tôn kính Đức Maria vinh hiển, Mẹ Thiên Chúa, với lòng kính mến đặc biệt, Mẹ là thành quả tuyệt diệu của công trình cứu độ, và là hình ảnh trọn hảo của Hội Thánh tương lai. Hội Thánh còn thêm vào niên lịch những lễ kính nhớ các Thánh tử đạo và các thánh khác. Hội Thánh công bố mầu nhiệm Phục Sinh nơi các ngài, vì các ngài đã cùng chịu thương khó và cùng được vinh hiển với Đức Kitô. Hội Thánh cũng đề cao gương lành của các Ngài để lôi kéo mọi người đến cùng Chúa, và nhờ công nghiệp của các ngài, Hội Thánh lãnh nhận được những hồng ân của Thiên Chúa.

 

Các giờ Kinh Phụng vụ (GL 1174-1178)

Thánh lễ được nối dài bằng các Giờ Kinh Phụng Vụ, hay còn được gọi là kinh Nhật Tụng, là kinh nguyện công khai của Hội Thánh, qua đó toàn thể Dân Chúa cùng ngợi khen Thiên Chúa và cầu bầu cho phần rỗi của cả thế giới. Kinh Nhật Tụng nhằm mục đích thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa. Vì thế, kinh Nhật Tụng chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt Phụng Vụ của Hội Thánh. Các linh mục, tu sỹ nam nữ có bổn phận phải đọc kinh Nhật Tụng hằng ngày, để thay mặt Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện liên lỷ. Kinh này cũng là phần không thể thiếu trong các tu viện. Tất cả gồm có:

– Kinh sáng và kinh chiều: đây là 2 giờ then chốt của kinh nguyện hàng ngày. Kinh sáng nhằm thánh hóa khắc ban mai, kinh chiều được cử hành vào ban chiều khi ngày vừa xế bóng để tạ ơn về những gì Chúa đã ban. Giờ kinh chiều được hiểu như chính lễ tế ban chiều Chúa Cứu Thế truyền lại cho các tông đồ trong bữa tiệc ly hoặc như lễ tế chính Người dâng lên Chúa Cha vào buổi chiều hôm sau để cứu chuộc toàn nhân loại.

– Kinh sách đề ra cho dân Chúa phương tiện phong phú nghiền ngẫm Kinh thánh và những trang sách hay đẹp nhất của các nhà tu đức.

– Kinh nửa ngày (giờ ba, sáu, chín): các ki tô hữu đạo đức còn có thói quen cầu nguyện nhiều lúc trong ngày để bắt chước Hội thánh thời các tông đồ.

– Kinh tối: là giờ kinh cuối ngày để kiểm điểm, tạ ơn và phó dâng giấc ngủ trong đêm.

Để việc cử hành Phụng Vụ Các Giờ Kinh mang lại kết quả phong phú, không những người đọc cần hòa hợ p tâm trí với lời mình đọc, mà còn phải trau dồi kiến thức về Phụng Vụ và Kinh Thánh, nhất là về các Thánh Vịnh.

 

4. Cử hành Phụng vụ ở đâu?

Việc thờ phượng “trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,24) của Giao ước Mới không bị lệ thuộc vào bất cứ nơi nào đặc biệt, vì Ðức Kitô là Ðền Thờ đích thực của Thiên Chúa; nhờ Người, các người Kitô hữu và toàn thể Hội Thánh, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, cũng trở thành đền thờ của Thiên Chúa hằng sống. Tuy nhiên, Dân Thiên Chúa, trong hoàn cảnh trần thế, cần đến những nơi chốn để cộng đoàn có thể qui tụ cử hành Phụng vụ.

Khi tự do tôn giáo không bị hạn chế, các kitô hữu có thể xây dựng những nơi dành riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa. Ðó là những ngôi nhà của Thiên Chúa, biểu tượng của Hội Thánh đang sống tại đó cũng như biểu trưng nơi cư ngụ thiên quốc. Ðó là những nơi cầu nguyện trong đó Hội Thánh cử hành đặc biệt là Thánh lễ và tôn thờ Ðức Kitô thực sự hiện diện trong nhà tạm.

Thánh đường là nhà nguyện, nơi cử hành và cất giữ Thánh Thể, cũng như để tín hữu tụ họp, nơi có sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Đấng Cứu chuộc chúng ta, Đấng đã được hiến dâng vì chúng ta trên bàn thờ tế lễ. Nhà này cần phải được bảo quản sạch sẽ, xứng hợp với việc cầu nguyện và những buổi cử hành thánh lễ. Trong nhà Chúa các biểu tượng phải chân thật, hài hòa để giúp mọi người nhận ra Đức Kitô đang hiện diện và hoạt động nơi đây (x.SC7)

Những nơi ưu tiên là: bàn thờ, nhà tạm, nơi cất giữ Dầu thánh, ngai Giám mục hay linh mục, giảng đài, giếng rửa tội, tòa giải tội.

Thánh Đường còn mang ý nghĩa cánh chung. Để vào Nhà Chúa, người tín hữu phải bước qua ngưỡng cửa, như thể từ thế giới tội lỗi bước vào thế giới của đời sống Mới mà Thiên Chúa muốn dành cho mọi người. Thánh Đường hữu hình tượng trưng cho Nhà Cha; ở đó, Chúa Cha “sẽ lau sạch nước mắt họ”. Vì vậy, Thánh Đường là nhà của tất cả con cái Thiên Chúa, luôn mở rộng đón mời mọi người.

NGUỒN: https://tinmungmoingay.com/giao-trinh-phung-vu-can-ban/

[1] Gp Đà lạt, TÌM HIỂU PHỤNG VỤ

[2] Lm. Vinh-sơn Nguyễn Thế Thủ, TÌM HIỂU THÁNH LỄ

[3] Lm. Giuse Vũ Thái Hòa, CÁC VẤN NẠN THÁNH LỄ

[4] Sr. M. Mừng (MTGHN)