Friday, September 30, 2022

30.9 Thánh Giêrômiô, Lm Ts

Xin cho ta đừng cứng lòng

 G 38:1,12-21; Tv 139:1-3,78,9-10,13-14; Lc 10:13-16

          Thánh Giêrônimô sinh năm 340 tại Stridon gần Aquila, miền tam biên giữa Dalmatia, Pannonia và Italia. Tên đầy đủ của ngài là Eusêbiô Giêrônimô Sôphrôniô. Dường như ngài thuộc một gia đình giàu có và được giáo dục đầy đủ về văn chương, theo thường lệ dành cho các thiếu niên thượng lưu thời đó.

 

          Trước hết, ngài đã theo học tại Stridon, rồi sau đó tại Rôma với nhà văn phạm thời danh Donatô, ngài đã học để viết văn La Tinh cho tuyệt diệu tinh ròng và chính xác. Bởi đó, ngài say mê các tác phẩm cổ, sau này ngài coi chúng như một thứ cám dỗ.

          Trong một bức thư gởi cho Eustochium, Ngài có kể lại một giấc mơ khi nằm tại bệnh viện Antiôkia. Trong giấc mơ, ngài thấy mình phải đến trước vị quan án. Ngài tự xưng mình là Kitô hữu, nhưng quan án trả lời:

          – Ngươi không phải là Kitô hữu. Ngươi là đồ đệ Cicêrô. Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó. Mà kho tàng của ngươi là các thứ tác phẩm của Cicêrô.

Sau đó, ngài bị đánh đòn và hứa sẽ từ bỏ các tác phẩm trần tục này.

          Thánh Giêrônimô được giáo dục để trở thành Kitô hữu và luôn coi trọng tôn giáo. Dầu vậy, 19 tuổi Ngài mới lãnh bí tích Rửa tội ở Rôma vào ngày Phục Sinh năm 366. Khi viếng thăm Trier, sau khi hoàn tất việc học ở Rôma, ngài hiểu biết ít nhiều về lối sống khổ hạnh, có lẽ do thánh Athanasiô bị lưu đày tới và đã quyết rằng đó là ơn gọi của ngài. Ngài gia nhập một cộng đoàn linh mục và giáo dân tại Aquileia năm 370. Cộng đoàn bị tan vỡ vì một cuộc tranh chấp nào đó.

          Năm 375, Giêrônimô đi về hướng đông với mấy người bạn, tới miền tổ đời khổ hạnh Kitô giáo. Sau khi dừng lại ở Antiôkia ít lâu, ngài đến sống trong sa mạc Chalcis như một ẩn sĩ. Nơi đây, ngài “không có bè bạn nào khác ngoài bò cạp và hoang thú”. Ngài khổ cực vì bệnh tật mà nhất là các cơn cám dỗ, “Trong đầu óc tôi thường thấy mình giữa đám gái nhảy”. Và ngài khóc thương rằng: “Một người chết yểu trong xác thịt như vậy mà ngọn lửa thèm muốn còn cháy lên dữ dội”.

          Để kiềm chế óc tưởng tượng, sau khi đã xử phạt xác mà không được, Ngài chú tâm học tiếng Do Thái. Như vậy, ngài đã khởi đầu công trình chính yếu trong đời làm học giả nhiệt thành giải thích Thánh Kinh.

          Năm 378, ngài trở lại Antiôkia và đến với Constantinople để học Thánh Kinh với nhà thần học lừng danh là thánh Gregôriô thành Nazian. Năm 382, ngài đến Rôma và trở thành thư ký của Đức Giáo Hoàng Đamasô. Tại đây, ngài bắt đâu công trình hệ trọng về Thánh Kinh. Ngài hiệu đính các bản dịch La Tinh về Phúc Âm và Thánh Vịnh. Ngoài ra, Ngài cũng hăng hái khích lệ phong trào sống khổ hạnh giữa các phụ nữ Rôma.

          Nỗ lực này đã gây nên một số chống đối của một số giáo sĩ Rôma. Chống lại, ngài đã viết những dòng sống dộng:

          – “Cái gì sơn phết lên khuôn mặt người Kitô hữu. Các miếng cao dán đầy tham vọng này là dấu chỉ của đầu óc thiếu trong sạch. Làm sao có thể nói được rằng một phụ nữ khóc than tội mình mà nước mắt họ cầy luống trên cặp má tô vẽ của họ. Hạnh phúc trông đợi gì từ Thiên Đàng khi mà cầu khẩn Chúa, họ lại chường mặt ra cho đấng tạo thành không còn nhận diện được họ nữa?”.

          Do những lời quở trách này mà Ngài trở nên xa lạ với dân gian. Sau cái chết của thánh Đamasô, ngài lại lui về phương đông (năm 348).

          Một nhóm phụ nữ đã sống dưới sự hướng dẫn của ngài và đã theo ngài, đứng đầu là thánh nữ Paula với con ngài là thánh nữ Eustochium. Họ lập thành một nhóm các tu viện gần đại giáo đường Giáng Sinh tại Bêlem. Tại đây, thánh Giêrônimô đã trải qua những ngày an bình hạnh phúc cuối đời, ngài cũng dự phần vào nhiều cuộc tranh luận dữ dội. Một trong các cuộc tranh luận ấy là cuộc tranh luận giáo thuyết của Origen. Nhưng công cuộc lớn lao nhất của đời ngài chính là công cuộc ngài đã chuẩn bị từ sa mạc Chalcis, đã khởi sự từ Rôma, công cuộc phiên dịch Thánh Kinh ra tiếng La Tinh. Dựa vào công trình này mà thế giá ngài tồn tại mãi trong Giáo Hội Công giáo, cũng như sự thánh thiện của ngài có được một bằng chứng hùng hồn.

          Toàn bộ Thánh Kinh bằng tiếng La Tinh, gọi là bản phổ thông đều được thánh Giêrônimô phiên dịch hay nhuận đính trừ các sách: Khôn Ngoan, Huấn Ca, Baruch và hai sách Macabê. Ngài thực hiện bản dịch thứ hai tại Rôma. Chính bản dịch thứ hai này nằm trong bản dịch Thánh Kinh phổ thông và được Giáo Hội dùng trong phụng vụ giờ kinh.

          Thánh Giêrônimô qua đời bình an tại Bêlem ngày 30 tháng 9 năm 420. Thánh Paula và Eustochium đã chết trước ngài. Thi thể ngài được chôn cất với họ trong nhà thờ Giáng Sinh, nhưng sau này được đưa về Rôma và nay đang được chôn cất tại đền thờ Đức Bà Cả.

          Ðức Giáo Hoàng Bonifaciô VII suy tôn ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh.

           Ta thường nghĩ rằng đối nghịch với yêu là ghét. Nhưng kỳ thực còn hơn thế nữa; dửng dưng, lãnh đạm, không quan tâm đã là thù ghét, là đối nghịch với yêu rồi. Khi không yêu thích thì người hay vật dù có đó ngay trước mắt ta mà vẫn như không có, chẳng lọt được vào “mắt xanh” của ta. Khi không còn yêu nhau, người ta không còn quan tâm đến sự hiện diện của nhau, không còn nhạy bén với nhu cầu của nhau nữa. Đức Giê-su nói rằng khốn cho các thành ven bờ hồ Ga-li-lê không phải vì họ ghét Chúa, xua đuổi Ngài, mà vì thái độ dửng dưng, thờ ơ với Tin Mừng. Đối với họ, lời rao giảng, phép lạ Ngài làm lôi cuốn thật đấy, kỳ diệu thật đấy, nhưng chẳng chút gì liên quan đến họ. Họ cảm thấy không cần hoán cải, thay đổi đời sống, vì họ không chú ý đến Ngài.

          Trong Tin Mừng hôm nay, theo truyền thống các tiên tri Cựu Ước, Chúa Giêsu cũng nêu đích danh ba thành phố có nếp sống sa đọa nằm dọc theo bờ hồ, đó là Cozazin, Betsaiđa và Capharnaum. Những tiện nghi vật chất khiến con người dễ trở thành câm điếc trước Lời Chúa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình, do đó, cô đơn vốn là điều con người sợ nhất, thành ra đi vào quan hệ với người khác là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cuộc sống đô thị với nếp sống ồn ào náo nhiệt của nó dễ tạo cho con người cái cảm tưởng rằng ở đó họ dễ đi vào quan hệ với người đồng loại.

          Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, cuộc sống càng xô bồ, con người càng dễ rơi vào cô đơn. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể mang lại bí quyết cho sự thông hiệp đích thực của con người, nghĩa là giúp cho con người ra khỏi nỗi cô đơn của mình; bí quyết đó chính là Lời của Ngài. Thật thế, khi con người sống kết hiệp với Chúa, thì dù có sống một mình, nó cũng sẽ không cảm thấy cô đơn; lại nữa, khi sống kết hiệp với Chúa, con người sẽ cảm thấy được thúc đẩy để đến với anh em của mình. Con người không thể kết hiệp với Chúa mà có thể khước từ người anh em của mình, và ngược lại, bất cứ một quan hệ chân thành nào với người anh em, cũng luôn gia tăng sự kết hiệp con người với Thiên Chúa.

          Dù muốn hay không, những thay đổi trong cuộc sống do kinh tế thị trường mang lại không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Thật ra, cuộc sống đức tin không phải là một sinh hoạt phụ trong cuộc sống chúng ta; đức tin phải là chiều kích bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta: chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống. Niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là Thánh Lễ Chúa Nhật, một vài sinh hoạt trong khuôn viên giáo đường, một số kinh kệ trong gia đình, chứ không ăn nhập gì đến cuộc sống mỗi ngày; niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là một món đồ trang điểm cho cuộc sống và cần thiết cho một số dịp nào đó trong năm, chứ không liên hệ gì đến đòi hỏi công bằng bác ái, liên đới mà chúng ta phải thực thi hằng ngày.

 

          Chúa Giêsu đến trần gian để cứu độ mọi người. Trước sự cứng lòng tin của một số dân thành đã từng chứng kiến phép lạ Chúa làm mà không tin, Chúa Giêsu dùng những lời lẽ than trách, khuyến cáo họ. Dầu vậy, Chúa không trừng phạt những kẻ lãnh đạm, cố chấp không đón nhận Tin Mừng, nhưng mời gọi, khuyến cáo họ nghe lời Chúa mà ăn năn trở lại. Chúng ta cần khoan dung với kẻ ác, nhẫn nại với người cứng lòng, để tình yêu của Chúa được biểu lộ qua chúng ta, có sức lôi cuốn tội nhân hoán cải.

          Hôm nay cũng là ngày chúng ta kính nhớ thánh Giêrônimô - một thầy dạy Thánh Kinh. Nhờ những nỗ lực và công khó của ngài mà chúng ta có được toàn bộ những giáo huấn quan trọng của Chúa Giêsu. Nhờ đó mà chúng ta có thể tìm ra con đường chân lý, con đường đưa đến hạnh phúc trọn đầy. Chúng ta hãy luôn khắc ghi lời dạy của thánh nhân: “không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Và ước chi lời nhắc nhở này luôn được chúng ta thực thi mỗi ngày trong cuộc sống qua việc chuyên cần và chăm chỉ đọc Thánh Kinh. Chắc chắn Chúa sẽ giúp chúng ta sống tốt vai trò của người môn đệ Chúa.
-----------------------

KD

THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG VÀ CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG

 


Thánh Nữ Têrêxa sinh tại Alencon bên Pháp năm 1873. Cha mẹ ngài là ông bà Louis Martin và Zélie Guérin rất đạo đức, đã được tuyên thánh ngày 12/7/2016 (đã sửa bản viết cũ). Ông bà có 9 người con nhưng 4 người chết sớm. Trong 5 người con gái còn lại, Têrêxa là con út: 4 người vào dòng kín Camêlô và Léonine đi tu dòng Thăm Viếng.
 

 
Têrêxa mồ côi mẹ năm lên 4 tuổi, và gia đình dọn về thành Lisieux. Têrêxa có ý định đi vào dòng kín tại đây mặc dù tuổi còn nhỏ. Nhưng gia đình cũng như Đức cha Hugonin đều chống lại dự án này nên Têrêxa quyết định xin phép thẳng với ĐGH. Năm 1887, cùng với cha và chị Céline, Têrêxa đi hành hương Roma và trong buổi tiếp kiến ngày 20 tháng 11 năm 1887, Têrêxa xin ĐGH Leo XIII cho phép vào dòng kín mặc dù lúc đó mới được 14 tuổi. Nhưng cô chỉ nhận được một câu trở lời mơ hồ và được dẫn ra ngoài, nước mắt dàn dụa.
 

 
Trở về Lisieux, Têrêxa được phép ĐGM cho vào dòng kín vào ngày 9-4-1888, lúc đó chị mới được 15 tuổi và 3 tháng. 24 nữ tu tiếp đón Têrêxa. Cuộc sống trong đan viện có nhiều cam go về mặt vật chất cũng như về kỷ luật. Chị Têrêxa ngày càng tiến triển trên con đường yêu mến Chúa. Ước muốn cứu rỗi các linh hồn thúc đẩy Têrêxa định xin tới dòng kín Camêlô ở Sàigon, nhưng vì bệnh lao phổi, nên chị Têrêxa phải bỏ ý định này, và từ tháng 4 năm 1897, Têrêxa không thể tham dự đời sống cộng đoàn nữa. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 lúc mới được 24 tuổi đời. Chỉ 27 năm sau đó, Đức Pio XI đã tôn phong Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên bậc hiển thánh và 2 năm sau ngài tôn thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo, giống như thánh Phanxicô Xavie, Tông đồ miền Viễn Đông.
 
Các tác phẩm của Thánh Têrêsa
Ngày 30 tháng 9 năm 1898, tức là đúng một năm sau khi Chị Têrêxa qua đời, Mẹ Agnès Chúa Giêsu và Mẹ Marie Gonzague đã cho ấn hành theo thông lệ một thư luân lưu về nữ tu quá cố và gửi tới tất cả các đan viện kín Camêlô. Chỉ khác một điều là bức thư này dày tới 476 trang. Tác phẩm đó mang tựa đề “Truyện một tâm hồn” và trở thành cuốn sách bán chạy nhất. Cuốn sách này được Mẹ Agnès soạn lại dựa trên 3 thủ bản A, B, C. Mãi tới năm 1956, cha Francois de Sante Marie mới trình bày bản phê bình, gồm các nguyên bản với phần dẫn nhập và chú thích.
 
+ Thủ bản A là tác phẩm được Têrêxa viết ra theo lời yêu cầu của Mẹ Agnès để kể lại những năm đầu tiên trong cuộc đời thánh nữ. “Truyện mùa xuân của một bông hoa trắng nhỏ”, do Têrêxa dùng những giờ phút rảnh rỗi giữa công việc và kinh nguyện để viết lại.
 
+ Thủ bản B được Thánh Nữ Têrêxa kết thúc vào trung tuần tháng 9 năm 1896: Trong một cuộc tĩnh tâm trong cô tịch, Têrêxa nhận được lá thư của chị Marie Thánh Tâm xin Têrêxa chia sẻ những ánh sáng thiêng liêng đã nhận được trong cuộc tĩnh tâm ấy. Ngay ngày hôm ấy, 13-9-1896, Têrêxa trả lời cho chị Marie, thông báo cho chị kinh nguyện dài mà Têrêxa đã viết ngày 8-9-1896 trước đó để kỷ niệm ngày khấn dòng, đồng thời kèm theo một thư dài. Thư này cùng với kinh nguyện vừa nói họp thành điều mà người ta gọi là “Thủ Bản B”. Trong thủ bản này Têrêxa cũng kể lại một giấc mơ và mô tả các mong ước, các ơn gọi mà Têrêxa ước mong được sống.
 
+ Thủ bản C do Têrêxa viết ra trong những tháng trước khi qua đời và lần này chị cũng viết vì đức vâng lời. Sứ mạng huynh đệ mà Têrêxa mô tả chính là một chứng tá sâu xa về đặc sủng Camêlô do Thánh Nữ Têrêxa Avila đã đề xướng khi cải tổ dòng Camêlo.
 

Ngoài ra, còn có các Thư của Têrêxa được công bố toàn bộ vào năm 1948, gồm 266 thư và miếng giấy nhỏ để ghi.
 
Các thư này được gửi cho những người thân yêu trong gia đình, 7 giáo sĩ, 3 tu huynh và hai bạn gái. Còn thiếu khoảng 60 thư Thánh Nữ Têrêxa viết cho cha giải tội và một số thư viết cho các “người anh thừa sai.” Tất cả các thư cho thấy, mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng Têrêxa đã thi hành nhiệm vụ hướng dẫn các linh hồn qua các thư từ đó.
 
Tập vở vàng gọi là Những Lời Sau Cùng, là tập hợp các lời cuối cùng của Têrêxa ghi lại trên cuốn vở của Mẹ Agnès. Tập này được chính Mẹ Agnès soạn lại, qua đó người ta thấy được chân dung của Thánh Nữ Têrêxa như một phụ nữ bị đóng đinh và chịu đau khổ khôn lường.
 

 
Năm 1952, cuốn Huấn dụ và Ghi niệm được công bố, rút từ những tuyên bố mà các nữ tập sinh dòng kín Camêlô ở Lisieux đã cung khai trong cuộc điều tra phong chân phước cho Têrêxa.
 

 
Thánh nữ Têrêxa cũng viết 54 bài thơ, được thu thập lại và trình bày trong ấn bản phê bình vào năm 1979. Ngày nay, sau 20 năm trời nghiên cứu, toàn bộ các tác phẩm của Thánh nữ Têrêxa đã được xuất bản theo nguyên tắc phê bình khoa học và được dịch ra các thứ tiếng.
------------------------
Lm Trần Đức Anh, OP

Friday, September 9, 2022

8.9 Sinh Nhật Đức Mẹ

 CA KHEN MẸ

(1 Cr 8:1-7,11-13; Tv 139:1-3,13-14,23-24; Lc 6:27-38)

          Theo Thánh sử Luca (Lc 1:26), Đức Trinh Nữ Maria sống tại Nagiarét khi chịu thai Chúa Giêsu, nên có thể Người cũng sinh ra tại Nagiarét. Và theo ngụy thư, gia đình hai Thánh Gioakim và Anna cư ngụ tại Nagiarét, nên hai Ngài cũng sinh Đức Trinh Nữ Maria tại đó. Nhưng theo Tiền Phúc âm Thánh Giacôbê, Đức Trinh Nữ Maria sinh tại Giêrusalem, vì hồi thế kỷ V một đền thờ được dâng kính Thánh Anna phía bắc đền thờ Giêrusalem, và tại Giêrusalem người ta mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ ngày mồng 8 tháng Chín trong một Vương cung thánh đường gần hồ tắm ngay chính nơi theo lưu truyền là nơi Đức Trinh Nữ sinh ra. Và năm 603, Thánh Sôphrôniô, Thượng phụ Giêrusalem, xác nhận Đức Trinh Nữ sinh tại Giêrusalem. Thánh Inhaxiô Antiôkia và Thánh Giustinô minh chứng Đức Trinh Nữ thuộc hoàng tộc Đavid vì theo Thánh sử Luca (1:27, 32, 69), Chúa Giêsu, Con Đức Maria, thuộc nhà Đavid.

          Bên Đông phương, theo Tiền Phúc âm Thánh Giacôbê, năm 560 đã có lễ Sinh nhật Đức Mẹ. Năm 715, Thánh Giám mục Anrê Crêta dâng lễ Sinh nhật Đức Mẹ và đã giảng bốn bài giảng. Bên Tây phương, Đức Thánh Giáo hoàng Sergiô I lập lễ này cùng với lễ Truyền tin, lễ Mẹ dâng Con, lễ Mẹ lên trời với bốn cuộc rước linh đình từ nhà thờ Thánh Adrianô về đền thờ Đức Bà Cả. Tại Pháp, Thánh Maurillô, Giám mục giáo phận Angers, đầu tiên mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ mà từ lâu gọi là "Notre-Dame Angevine". Thế kỷ XI, Thánh Giám mục Fulbertô có công truyền bá lễ này và, khi làm Giám mục thành Chartres, ngài đã mừng lễ này trọng thể. Dần dần lễ này được truyền bá khắp nơi.

          Đức Innocentê IV đặt lễ có tuần tám. Đức Grêgôriô XI đặt lễ vọng và ngày chay trước. Đức Thánh Piô X bỏ lễ vọng và tuần tám. Lễ Sinh nhật Đức Mẹ ngày mồng 8 tháng 9, đúng chín tháng sau lễ Đức Mẹ đầu thai vô nhiễm ngày mồng 8 tháng 12.

          Viết về Mẹ, nói về Mẹ sẽ không bao giờ cạn vơi ý tưởng,sẽ không bao giờ ngập ngừng,miễn cưỡng. Mẹ trần thế là niềm an ủi cho cuộc đời của con người gian trần.Nhưng, người Kitô hữu luôn hãnh diện vì có một người Mẹ trên trời, Mẹ thiêng liêng mà gần gũi mỗi người, mỗi con người.Mẹ có tên gọi Maria. Cái tên sao êm dịu và dễ mến. Maria gói trọn cả ý nghĩa? loài người. Mừng sinh nhật của mẹ Maria, nhân loại sẽ không ngớt lời ca ngợi Mẹ

          Vào lúc Mẹ trên trời được sinh ra đời, giống như mặt trời bình minh chiếu sáng, ánh sáng của ngày cứu chuộc đã đến gần và chắc chắn cho chúng con. Hãy đến gần nôi của Mẹ, thiên đàng vui mừng, với muôn cơ binh Thiên thần, đã sẵn sàng chờ đợi giây phút không thể tả bằng lời này. Quanh nôi Mẹ nằm, vô số thiên thần và các tiên tri, các người lành đã qua đời, đã được chuẩn bị và hy vọng, chờ mong biến cố vui mừng này. Từ trời cao, Thiên Chúa Cha nhìn xuống công trình kiệt tác của Ngài, Chúa Con chờ ngày nhập thể trong lòng đồng trinh của Mẹ. Chúa Thánh Thần cho Mẹ thông phần tràn trề tình yêu của Ngài. Vì vậy, ngày Sinh nhật Mẹ là nguyên cớ niềm vui lớn lao cho chúng con, cho những ai kêu cầu Mẹ là nguồn suối niềm an vui.

          Cùng với toàn thể Giáo Hội trong ngày lễ mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta hãy chúc tụng, cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương sắp đặt cho toàn thể nhân loai có một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Chúng ta hãy lên Mẹ Maria những lời ngợi khen vì Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt với muôn vàn ân phúc, nhất là đặc ân vô nhiễm thai và trở thành Mẹ Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời của Mẹ Maria, để trong từng ngày sống, chúng ta tập tành những nhân đức của Mẹ.

          Đức Maria là đại biểu cuối cùng và xứng đáng nhất của dân Chúa thời Cựu ước, đồng thời Mẹ cũng là “hy vọng và bình minh của toàn thế giới” (Vat. II)

          Ngay từ thời thơ ấu, Đức Trinh Nữ đã có một sự trưởng thành tâm linh tương xứng với tuổi đời. Giờ đây trên thiên quốc, được tràn đầy ân sủng và công trạng nhờ kết hợp với công cuộc của Con Mẹ, Mẹ săn sóc chúng ta và lắng nghe những lời ca ngợi và cầu xin của chúng ta.

          Hôm nay, Mẹ nghe những lời tạ ơn chúng ta dâng lên Thiên Chúa vì Người đã tạo dựng nên Mẹ. Mẹ nhìn xuống và cảm thông với cuộc sống của chúng ta. Sau Thiên Chúa, Mẹ là người cảm thông nhất về sự yếu đuối và những cuộc chiến đấu của chúng ta.

          Hầu hết các bậc cha mẹ đều tin rằng người con sơ sinh của họ là đứa trẻ đặc biệt nhất trên đời. Thánh Gioakim và thánh Anna chắc cũng nghĩ như thế khi con trẻ Maria được chào đời. Hai ngài quả thật không lầm. Mọi thế hệ đều ngợi khen con trẻ ấy là người diễm phúc: Song thân của Mẹ không biết hoa trái tình yêu thanh sạch của các ngài cao sang thế nào. Và trong cuộc sống, các ngài cũng chưa từng hiểu biết thấu đáo. Ai thực sự có thể tiên đoán được một con trẻ sơ sinh rồi sẽ như thế nào? Không ai biết chắc chắn cả. Tương lai của mỗi con trẻ là một mầu nhiệm. Mỗi người đều được Đấng Tạo Hóa ủy thác cho một sứ mạng cá biệt để thực hiện ở đời này.

          Ngày lễ hôm nay giúp chúng ta biết tôn trọng sự sống của từng cá nhân. Cha mẹ cộng tác trong việc truyền sinh, nhưng Thiên Chúa tạo dựng cho mỗi người một linh hồn bất tử. Trong ngày Mẹ Thiên Chúa chào đời, niềm vui lớn lao chúng ta cảm hưởng mang theo một trách nhiệm nghiêm chỉnh. Chúng ta phải vui mừng khi biết một con trẻ hiện hữu trong lòng mẹ, và vui mừng khi nó chào đời. Mặc dù một con trẻ chào đời sẽ mang theo khổ sở, đem đến những khước từ, hoặc tạo ra những ràng buộc và gánh nặng, nhưng đứa trẻ phải luôn luôn được đón nhận và cảm thấy an vui trong tình thương của cha mẹ. Mỗi người đều được mời gọi hãy ý thức về địa vị làm con cái Thiên Chúa của mình, hãy tán dương Thiên Chúa, và sau cùng, sẽ được hoan hưởng hạnh phúc muôn đời. Chúng ta hãy hân hoan mừng lễ Sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giê-su đã đến trong thế gian, chính “Người sẽ cứu dân mình khỏi tội” (Mt 1:21).

          Mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria qua lăng kính Mẹ là thụ tạo của Thiên Chúa, một thụ tạo với ngày khởi đầu của một con người trong cộng đồng nhân loại, một con người có ngày sinh tháng đẻ như bao người khác: 9 tháng 10 ngày trong dạ mẹ, lớn dần theo năm tháng, nhận được sự chăm sóc dạy dỗ của cha mẹ và người thân, mang nơi mình những ước mơ, hoài bão, những nỗi đau, yếu đuối của phận người.

           Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ. Với những lời chúc tốt lành nhất dâng về Mẹ cuộc sống hiện tại, quá khứ và tương lai làm món quà mừng Mẹ tuổi mới.

KD

Thursday, September 8, 2022

 

LỊCH SỬ LỄ SINH NHẬT ĐỨC MARIA 8-9

Giáo hội không mừng ngày sinh của các thánh, mà là mừng ngày mất. Ngày sinh của con cái Adam là một ngày u buồn tràn đầy nước mắt, và cái di sản thảm khốc của tội lỗi mà chúng ta mang theo khi vào đời. Còn ngày mất, đó là ngày sinh ra trong Nước Trời.

 

Nhưng trong lịch sử Phụng vụ Công Giáo, chúng ta thấy có ba lễ mừng sinh nhật: của chính Đức Giêsu, của Trinh Nữ Maria và của thánh Gioan Tẩy giả. Đối với thánh Gioan Tẩy giả, vì được thánh hoá ngay từ khi còn trong lòng mẹ, việc chào đời của Ngài là một biến cố vui mừng đặc biệt.

Riêng với Đức Trinh nữ Maria, những lễ kính Ngài là “Những lễ kính nhớ biến cố sinh ơn cứu rỗi, trong đó Giêsu và Mẹ Maria đi liền với nhau, như lễ sinh nhật Đức Maria, ngày mà hy vọng và vầng cứu rỗi ló dạng trên trần gian” (Marialis cultus.7): bởi vậy, ngày lễ sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria, Giáo hội hân hoan ca tụng.

Lễ Sinh nhật Đức Mẹ, ngày 08 tháng 9; đúng 9 tháng sau lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 08 tháng 12. Ngày Đức Trinh Nữ Maria chào đời là khởi đầu cho mùa cứu rỗi, như bình minh báo hiệu một ngày tươi sáng cho nhân loại. Mẹ như “sao mai” dẫn lối loài người, như “rạng đông” báo hiệu mặt trời.

 

NHỮNG CÂU HỎI ĐƯỢC ĐẶT RA TRONG LỄ SINH NHẬT ĐỨC MARIA:

1/. Cha mẹ song thân Đức Maria là ai?

2/. Đức Maria chào đời vào ngày nào?

3/. Dựa vào đâu mà phụng vụ mừng lễ Sinh nhật Đức Maria vào ngày 8 tháng 9?

Trả lời cho những câu hỏi này thật không dễ chút nào vì có rất ít tài liệu đề cập đến những vấn đề đó, ngay cả trong Tân ước. 

TIỀN PHÚC ÂM GIACÔBÊ:

Khi đi tìm gia thế của Đức Giêsu mà những truyền kỳ về Đức Maria được viết lên, nổi tiếng nhất là tác phẩm được đặt tên là “Tiền phúc âm của thánh Giacôbê” (Proto-evangelium Iacobi), bởi vì do một người tự xưng là Giacôbê, người anh cùng cha khác mẹ với Đức Giêsu (được đồng hóa với thánh Giacôbê giám mục Giêrusalem).

Tác phẩm này ra đời khoảng đầu thế kỷ II, và cũng được đặt tên là “việc sinh hạ Đức Maria” (De nativitate Mariae). Dựa theo tác phẩm này mà ta biết quý danh song thân đức Maria là ông Gioakim và bà Anna.

Tiền Phúc âm theo thánh Giacôbê gồm 24 chương ngắn, có thể chia làm 3 phần.

+ Phần thứ nhất (gồm 16 chương đầu), kể lai lịch, thời thơ ấu đức Maria cho tới lúc kết hôn với ông Giuse.

+ Phần thứ hai (từ chương 17 đến 21) thuật lại những phép lạ chung quanh cuộc sinh hạ Chúa Giêsu.

+ Phần chót (ba chương cuối từ 22 đến 24) kể chuyện vua Hêrôđê tàn sát các thiếu nhi ở Bêlem.

 

Tác phẩm mà chúng ta đang nghiên cứu không đả động đến ngày sinh tháng đẻ của Đức Maria. Tác giả chỉ nói rằng bà Anna sinh con sau chín tháng cưu mang. Sau khi đã sinh con, bà Anna mới được bà đỡ báo tin là sinh con gái. Và sau 14 ngày, bà đặt tên cho cô bé là Maria, một danh tánh khá quen thuộc trong dân Do thái. Dù sao, tác giả không quan tâm đến ngày sinh của đức Maria cho bằng việc dâng hiến vào đền thờ.

Không có tài liệu lịch sử nào cho biết Đức Maria sinh vào ngày nào. Lễ kính sinh nhật Đức Mẹ vào ngày 8 tháng 9 có lẽ bắt nguồn từ Giêrusalem.

Vào thế kỷ V, một ngôi nhà thờ được cất lên vào chỗ mà theo tục truyền bà Anna đã sinh con. Người ta đoán rằng ngôi nhà thờ này được cung hiến vào ngày 8 tháng 9; cũng tương tự như lễ dâng Đức Mẹ vào đền thờ được mừng vào ngày 21 tháng 11 vì kính nhớ lễ cung hiến một thánh đường tại Giêrusalem năm 543.

Một giả thuyết khác thì cho rằng bên Đông phương trước kia, ngày 8 tháng 9 trùng vào những ngày đầu năm dân sự, và người ta muốn nhớ đến Đức Mẹ trong ngày đó. Từ Đông phương, lễ sinh nhật Đức Mẹ được truyền bá sang Tây phương vào khoảng giữa thế kỷ VI hoặc đầu thế kỷ VII.

Ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo Hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ. Đến thế kỷ X, lễ mừng được phổ biến phắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ.

Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng Y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử, cai quản có 18 ngày, nên chưa thực hiện được lời hứa.

Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.

Như vậy ta đã trả lời tất cả các câu hỏi đã đặt ra.

Chúng ta có lý do chính đáng để mừng kính ngày Mẹ ra đời, như lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: Đây là “ngày mà niềm hy vọng và vầng hồng Cứu rỗi ló dạng trên trần gian” bởi vì “từ Mẹ mọc lên Mặt Trời công chính là Chúa Kitô, Chúa chúng ta.” Mẹ đã đóng một vai trò không thể thiếu trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa: là Mẹ Thiên Chúa làm người và Mẹ của cả loài người. Ngày sinh của Mẹ báo hiệu ngày sinh của Đấng Cứu Thế, và nhờ đó mới có ngày chúng ta được tái sinh làm con cái Thiên Chúa. Vì thế, ngày sinh nhật của Mẹ là ngày mà cả trời đất phải vui mừng hoan hỉ.

Theo Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.

Nguồn: Daminhvn.net