Thursday, September 19, 2013

Công bằng trên thế giới

LỜI GIỚI THIỆU
Văn kiện sau đây có tác giả là Thượng Hội Đồng Giám Mục, cấp đoàn thể mới, xuất thân từ Công đồng Vatican II. Thượng Hội Đồng nhóm họp vào năm 1971 (từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 6 tháng 11) là Thượng Hội Đồng thứ ba tính từ các Thượng Hội Đồng chung đã nối tiếp nhau kể từ Công Đồng. Có một Thượng Hội Đồng, gọi là “thông thường”, vào năm 1967; một Thượng Hội Đồng khác, được gọi là “ngoại thường”, giới hạn hơn, vào năm 1969. Thượng Hội Đồng năm 1971 một lần nữa được gọi là thông thường.
Thượng Hội Đồng 1971 có hai chủ đề trong chương trình làm việc: – Thừa tác vụ linh mục, – Công bằng trên thế giới. Trên mỗi một chủ đề này, Thượng Hội Đồng đã soạn thảo và bỏ phiếu một văn kiện tập hợp các quan điểm quan trọng nhất và các mong ước của Hội nghị. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã công bố cả hai văn kiện vào ngày 30 tháng 11 năm 1971.
Chủ đề Công bằng trên thế giới đã được giới thiệu ở Thượng Hội Đồng ngày 14 tháng 10 năm 1971, qua bản báo cáo của Đức cha Alberto y Valderrama, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Phi-líp-pin. Tuy nhiên, cuộc thảo luận chỉ bắt đầu vào ngày 20 tháng Mười, như thế là khá muộn, trong một Hội nghị vừa mới nghiên cứu các vấn đề khó khăn, đặc biệt về vấn đề độc thân linh mục, trong một bầu khí căng thẳng; thế nhưng việc bàn luận về vấn đề Công bằng trên thế giới thì cụ thể, cởi mở và phóng khoáng.

Các buổi họp thảo luận đầu tiên (20-22 tháng 10) đều được khai mạc, không phải bởi các giám mục, nhưng bởi các chuyên gia giáo dân thuộc Uỷ ban Giáo Hoàng “Công Lý và Hoà Bình”: Barbara Ward (Phu nhân Jackson), chuyên gia kinh tế nổi tiếng người Anh, giảng viên ở Hoa Kỳ sau khi làm việc ở Ghana mãi đến năm 1961; Candido Mendes de Almeida, hiệu trưởng một viện đại học ở Rio de Janeiro; cuối cùng là Kinhide Mushakoji, giáo sư tại Đại học Sofia, ở Tokyo.

Chính vấn đề công bằng quốc tế từ rất sớm đã nằm ở hàng đầu. Hơn nữa, tình hình đang thúc giục cách cấp bách. Chắc chắn vào năm 1971, người ta vẫn còn ở đỉnh cao của làn sóng tăng trưởng ngoạn mục đánh dấu các nền kinh tế được công nghiệp hoá từ sau chiến tranh. Chỉ vào năm 1973 mới xảy ra vụ “sốc” dầu hoả đầu tiên. Tuy nhiên, đã có cuộc “bất ổn văn minh” đáng lo ngại này vào cuối thập niên 60, báo hiệu cuộc khủng hoảng. Nhưng nhất là hố ngăn cách được đào sâu giữa Phương Tây vẫn còn đang phát triển và thế giới thứ ba, đang bị thất bại cay đắng trong niềm hy vọng phát triển nhanh chóng. Thập niên phát triển đầu tiên của Liên Hiệp Quốc, bao gồm những năm 60, đã không giữ được lời hứa của mình. (Vả lại, thập niên đó hẳn đã có thể (phát triển) được chăng? Phải chăng người ta đã không khuyến khích vài ảo tưởng về sự dễ dàng của “các cuộc thoát khỏi tình trạng lạc hậu”?). Một thập niên thứ hai vừa mới bắt đầu, trong một bầu khí khá suy sút. Có cảm giác rằng có điều gì đó thực sự không ổn trong hệ thống các quan hệ kinh tế quốc tế. Đàng khác, một cơn giận cách mạng dữ dội đã bùng lên trong những năm gần đây. Nó được biểu tượng hoá, nếu người ta muốn, bởi số phận của Che Guevara, bộ trưởng Thương Mại Cu-ba, người đã quay về với nhóm du kích quân và đã bị giết vào năm 1967, ở Bô-li-vi-a.
*    *    *
Các Thượng Hội Đồng liên tiếp kể từ Công đồng Vatican II đã thể hiện một sự “giải Tây Phương hoá” dần dần của Giáo Hội, các giám mục Châu Mỹ La-tinh, Châu Phi và Châu Á trở nên ngày càng đông và ngày càng tự tin. Điều này chỉ khởi đầu vào năm 1971. Vậy mà người ta có cảm giác rằng chính vấn đề về công bằng quốc tế như những người thuộc thế giới thứ ba nhận thấy, mới chi phối cuộc tranh luận của Thượng Hội Đồng về Công bằng trên thế giới. Người ta đang ở khá xa Octogesima Adveniens, Tông Thư gửi hồng y Roy, được công bố vào mùa Xuân trước (14.05.1971). Dù hoàn toàn gần đây, Tông thư này không được trích dẫn theo nghĩa chặt trong tài liệu của Thượng Hội Đồng về công bằng, chỉ có hai chỗ ám chỉ, trong khi Populorum progressio được trích dẫn, mà cuối cùng các Nghị Phụ muốn trực tiếp kéo dài sự suy tư của nó. Octogesima Adveniens đã nhắm hơn đến các vấn đề mới, đúng hơn xuất hiện trong các nước Phương Tây. Ở đây, chúng ta có thí dụ về sự khó khăn có một tiếng nói chung, mà chính đức Phao-lô VI đã nói trong Octogesima Adveniens.

Một khái niệm quan trọng, ngay từ đầu cuộc thảo luận của Thượng Hội Đồng, là khái niệm tố cáo những bất công. Vả lại, báo cáo viên mời các Nghị Phụ tố cáo các bất công trong Giáo Hội, chứ không chỉ ở những nơi khác. Một đoạn văn tự phê bình do đó sẽ được duy trì ngay cả trong văn kiện chung quyết.
Nhưng đã có nhiều khó khăn đối với các bản kiến nghị riêng biệt tố cáo những bất công nhắm đến nước này hay nước kia: ví dụ như Nam Phi đối với nạn phân biệt chủng tộc, Ít-ra-en đối với việc chiếm các Nơi thánh, Liên Bang Xô-Viết đối với cách đối xử các người Công giáo U-krai-na, … Các Nghị Phụ đã kết luận rằng việc tố cáo các bất công riêng biệt phải là công việc của các Giáo Hội địa phương, biết rõ trực tiếp các hoàn cảnh.
*   *    *
Công việc soạn thảo trong Thượng Hội Đồng được một nhóm các Giám Mục điều hành: Đức cha Torrella Cascante, phó chủ tịch Hội Đồng giáo dân và của Uỷ ban Giáo hoàng “Công Lý và Hoà Bình”; Đức cha Plourde (Canada); Đức cha Labayen (Philíppin); Đức cha Oves (Cuba); Đức cha Degenhardt (Đức). Các chuyên gia chính, những người giải quyết phần lớn công việc, là hai Cha dòng Tên, Cha Alfaro và Cha Land, một tu sĩ dòng Đa-minh, cha Cosmao, và hai giáo dân đã được nêu tên, Bà Barbara Ward và ông Candido Mendes. R. Laurentin, trong cuốn sách của mình về Thượng Hội Đồng[1], đã ghi nhận Bà Barbara Ward “đã soạn thảo phần quan trọng nhất phần tổng hợp các cuộc thảo luận… Đây là lần đầu tiên một phụ nữ đóng vai trò chủ chốt này trong việc soạn thảo một tài liệu thuộc cấp cao nhất của Giáo Hội”.
*  *  *
Tài liệu chung kết dưới đây được trình bày thành ba phần:
I. Một phân tích về sự hỗn độn của thế giới (“Công bằng và xã hội thế giới”).
II. Một suy tư thần học về mối liên hệ giữa hy vọng và sự giải phóng trần thế của nhân loại (“Sứ điệp Thánh Kinh và sứ mạng của Giáo Hội”).
III. Vài hướng đi cho việc chứng tá và hành động hiệu quả, nhất là có tính giáo dục, đối với các bất công hiện nay (“thực hành sự công bằng”).
*   *   *
Ngoài những vấn đề bất công quốc tế tương xứng với các ngõ cụt của sự phát triển, vốn nằm ở trung tâm các mối bận tâm, cần phải nêu lên lợi ích rất lớn mà Thượng Hội Đồng đã mang lại cho khái niệm thần học về “giải phóng” – sẽ được Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI nói lại sau đó trong Tông huấn Evangelii nuntiandi, được công bố vào năm 1975 tiếp sau Thượng Hội Đồng 1974–, cũng như cho vấn đề giải giáp vũ khí và vấn đề thăng tiến phái nữ (dù rằng đoạn văn liên quan đã bị làm yếu đi vào giờ chót).

Đối với thẩm quyền của văn kiện, cần ghi nhận rằng Đức Thánh Cha, dường như sau khi có dự kiến riêng, đã từ chối trao cho Thượng Hội Đồng một “lá phiếu biểu quyết”.[2] Một văn kiện như thế dĩ nhiên mang tính chất tham vấn. Sau đó, Đức Giáo Hoàng đã công bố văn kiện, như chúng tôi đã ghi nhận, nhưng ngài không muốn bênh vực nó cách trực tiếp bằng thẩm quyền của mình – kể ra là hành động cùng cách đối với văn kiện về Thừa Tác Vụ Linh Mục. Chỉ dụ công bố nói rằng Đức Giáo Hoàng “tiếp nhận và xác nhận mọi kết luận mà, trong hai văn kiện, đều tương hợp với các chuẩn mực hiện hành”. Điều này muốn nói rằng chúng phải được giải thích bởi các văn kiện có thẩm quyền hiển nhiên hơn.
*   *   *
Văn kiện Công bằng trên thế giới không gây ảnh hưởng sâu rộng lắm nơi các Giáo Hội tại các nước Phương Tây. Có phải đó là do tính kịch liệt của ngôn từ được dùng nói với các nước giàu? Ví dụ như những câu này: “Chúng tôi lấy làm tiếc việc hoàn toàn từ bỏ ý tưởng chia sẻ và trách nhiệm toàn cầu này từ phía các nước giàu (được ghi khắc trong các mục tiêu của thập niên phát triển thứ hai). Chúng tôi hy vọng rằng một sự sa sút như thế về liên đới quốc tế sẽ không làm mất đi mọi nỗ lực thảo luận về thương mại được chuẩn bị bởi Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (CNUCED).”
Ở những môi trường của Giáo Hội, người ta cảm thấy thoả mãn hơn nhiều, nhất là ở Châu Mỹ La-tinh, Châu Phi và Châu Á, những nơi nhạy cảm trực tiếp đối với các vấn đề bất công kinh tế quốc tế. Cũng cần ghi nhận một tầm ảnh hưởng đặc biệt của Công bằng trên thế giới trong việc soạn thảo văn kiện “Phục Vụ Đức Tin và Thăng Tiến Công Bằng” của Tổng Công Nghị lần thứ XXXII của Dòng Tên (1975). Ở đây, có một nhân tố gợi hứng rất quan trọng. Công Nghị đã tuyên bố “ việc thăng tiến công bằng” là “đòi buộc tuyệt đối” của việc phục vụ đức tin, y như Thượng Hội Đồng đã định rõ “cuộc đấu tranh cho công bằng và việc tham gia biến đổi thế giới” thuộc “chiều kích cấu thành của việc rao giảng Tin Mừng”.
*   *    *
Đàng khác, quả thật, nếu văn kiện của Thượng Hội Đồng không nhận được sự đón nhận đầy ấn tượng trong toàn thể Giáo Hội, thì ít ra nó đã ảnh hưởng đáng kể trên những vấn đề đặt ra của Thượng Hội Đồng tiếp theo (1974), dành cho công cuộc Phúc Âm hoá, được đánh dấu đậm nét bởi vấn đề “giải phóng” cũng như vấn đề đấu tranh cho công bằng. Vả lại, ở đây người ta lại bàn về những hạn từ “chiều kích cấu thành” (“dimension constitutive”) được nhắc lại ở đoạn trước, vì nhiều người nghĩ rằng “chiều kích bộ phận” (“dimension intégrante”) diễn đạt chính xác hơn mối liên hệ phải tồn tại giữa cuộc đấu tranh cho công bằng và việc rao giảng Tin Mừng.
Bất chấp sự lãng quên tương đối mà từ đó văn kiện của Thượng Hội Đồng gặp phải, cuộc thảo luận năm 1971 về Công bằng trên thế giới vẫn còn là một giai đoạn ý nghĩa. Chắc chắn không có văn kiện nào của Giáo Hội đã mạnh mẽ nhắm thẳng những bất công đáng lo ngại trên toàn thế giới như thế, mà thế giới vẫn chưa thoát khỏi. Và sẽ thật đáng tiếc nếu hướng nghiên cứu này không được theo đuổi, và nếu chúng ta không tiếp tục nghiên cứu một số con đường được Thượng Hội Đồng khai mở: hoặc về chứng tá mà Giáo Hội phải thể hiện, bằng nhiều phương thế, đối với công bằng; hoặc vấn đề “giáo dục về công bằng”; cũng như về những trách nhiệm của các dân tộc, các chính phủ, các tổ chức quốc tế để đẩy lùi bất công trên thế giới.
Jean-Yves Calvez

MỤC LỤC
Dẫn nhập (số 1-7)

I. CÔNG BẰNG VÀ XÃ HỘI THẾ GIỚI
Cuộc khủng hoảng liên đới toàn cầu (8-13)
Quyền được phát triển (14-20)
Những bất công khôn tả (21-31)

II. SỨ ĐIỆP THÁNH KINH
VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI (32)
Công lý cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô (33-38)
Sứ mạng của Giáo Hội, phẩm trật và các Kitô hữu (39-41)

III. THỰC HÀNH SỰ CÔNG BẰNG
Chứng tá của Giáo Hội (42-51)
Giáo dục về công bằng (52-61)
Sự hợp tác giữa các Giáo Hội địa phương (62-63)
Sự cộng tác đại kết (64-65)
Hành động quốc tế (66-74)
Những ước mong của Thượng Hội Đồng (75-76)

IV. NIỀM HY VỌNG (77-80)

CÔNG BẰNG TRÊN THẾ GIỚI

Văn kiện được các Nghị Phụ của Đại Hội Đồng lần thứ hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục thông qua và được Đức Thánh Cha Phaolô VI công bố

 DẪN NHẬP
1. Nhóm họp từ khắp thế giới, trong sự hiệp thông với tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu-Kitô và với toàn thể gia đình nhân loại, trong sự ứng trực cho Chúa Thánh Thần, Đấng làm nên mọi sự mới mẻ, chúng tôi đã tự vấn về sứ mạng của Dân Thiên Chúa đối với việc thăng tiến công bằng trên thế giới.

2. Trong khi khám phá các dấu chỉ của thời đại và tìm cách phân định ý nghĩa của lịch sử đang diễn ra, khi chia sẻ những khát vọng và những vấn nạn của tất cả những ai muốn một thế giới nhân bản hơn, chúng tôi đã đặt mình lắng nghe Lời Chúa để hoán cải bản thân nhằm thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài trên thế giới.

3. Cho dầu việc đào sâu phân tích tình hình thế giới không phải là phạm vi của chúng tôi, thế nhưng chúng tôi đã có thể đánh giá được những bất công nghiêm trọng đang dệt nên một mạng lưới những thống trị, những áp bức, những bóc lột trên mảnh đất nhân sinh. Chúng bóp nghẹt các quyền tự do và ngăn cản một phần lớn nhân loại tham dự vào việc xây dựng và vui hưởng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn.

4. Nhưng đồng thời chúng tôi cũng đã nhận thấy một phong trào ngấm ngầm đang nổi lên và đang nâng dậy thế giới. Có những thành quả đã đóng góp vào sự tiến bộ trong công bằng. Trong các nhóm người hay các dân tộc, có một ý thức đang thức tỉnh, đẩy lùi sự nhẫn nhục hay thuyết định mệnh, dẫn đưa họ đến sự giải thoát chính mình và đảm nhận số phận của mình. Những phong trào đang xuất hiện, biểu lộ hy vọng về một thế giới tốt hơn và ý muốn biến đổi những gì đã từng trở nên bất bao dung.

5. Khi lắng nghe tiếng kêu của những ai đang chịu cưỡng bức và bị đè bẹp bởi những hệ thống và những cơ chế bất công, chẳng khác nào như thách đố của một thế giới mà sự băng hoại của nó đi ngược với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa, chúng tôi đã cùng nhau ý thức về ơn gọi của Giáo Hội hiện diện giữa lòng thế giới để loan báo Tin Mừng cho người nghèo, sự giải thoát cho người bị áp bức, niềm vui cho người sầu khổ.

6. Những hy vọng và sức mạnh đang xâm chiếm thế giới cách sâu xa không hề xa lạ với sự năng động của Tin Mừng mà, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, giải thoát con người khỏi tội lỗi cá nhân của mình và khỏi những hậu quả của nó trong đời sống xã hội.

7. Chúng tôi hướng sự bấp bênh của lịch sử, như những tích hợp đau khổ đang xảy ra trên con đường tiến triển của cộng đồng nhân loại, đến Lịch Sử thánh mà Thiên Chúa đã tỏ mình cho chúng ta, bằng cách biểu lộ cho chúng ta kế hoạch giải thoát và cứu độ của Ngài, được thực hiện, một lần cho tất cả, trong cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô. Cuộc đấu tranh cho công bằng và việc tham gia biến đổi thế giới xuất hiện, đối với chúng tôi, như là một chiều kích cấu thành của việc rao giảng Tin Mừng là chính sứ mạng của Giáo Hội để cứu rỗi nhân loại và giải thoát nó khỏi hoàn cảnh áp bức.

I. CÔNG BẰNG VÀ XÃ HỘI THẾ GIỚI
Cuộc khủng hoảng liên đới toàn cầu

8. Thế giới mà Giáo Hội đang sống và hành động là tù nhân cho một thứ nghịch lý đáng sợ. Chưa bao giờ các sức lực đang làm việc cho sự lên ngôi của một xã hội thế giới thống nhất đã tỏ ra mạnh mẽ và năng động như thế; chúng có cội rễ nơi ý thức về sự bình đẳng căn bản trọn vẹn và nhân phẩm của mọi người. Con người, thành viên của chính gia đình nhân loại, được gắn liền với nhau trong số phận duy nhất của hành tinh mà nó phải chia sẻ trách nhiệm.

9. Những khả năng công nghệ kỹ thuật mới dựa vào sự thống nhất của khoa học, vào tính toàn cầu và tính đồng thời của sự tương giao và vào sự hình thành của một thế giới kinh tế hoàn toàn độc lập. Như thế, con người bắt đầu nắm lấy một chiều kích mới mẻ và triệt để hơn của sự thống nhất khi khám phá ra rằng các tài nguyên, các tổng thể quý giá không khí và nước cần thiết cho sự sống, « bầu sinh quyển » nhỏ bé và mong manh của tất cả những gì đang sống trên trái đất, không phải là vô hạn, nhưng trái lại chúng phải được bảo quản và gìn giữ như là gia sản độc nhất của toàn thể nhân loại.

10. Sự nghịch lý ở chỗ, trong viễn ảnh thống nhất này, các lực chia rẽ và đối kháng càng ngày càng gia tăng áp lực của chúng. Những chia rẽ trước đây giữa các quốc gia và các đế quốc, giữa các chủng tộc và giai cấp, giờ đây sở hữu những phương tiện kỹ thuật hủy diệt mới mẻ ; cuộc chạy đua vũ trang nhanh chóng đang đe dọa thiện ích lớn lao nhất của con người là sự sống ; nó làm cho người nghèo, các dân tộc hay các cá nhân, còn nghèo hơn nữa và chỉ làm giàu cho những kẻ đã có quyền thế rồi ; nó sinh ra một nguy cơ chiến tranh thường xuyên mà, trong trường hợp vũ khí hạt nhân, đe dọa hủy diệt sự sống trên trái đất. Đồng thời, có những chia rẽ mới đang xuất đầu lộ diện để chia rẽ con người với tha nhân của mình. Tác động của trật tự công nghệ và kỹ thuật mới, nếu nó không được khắc phục và vượt qua bởi hoạt động xã hội và chính trị, sẽ tạo điều kiện cho việc tập trung của cải, quyền lực, quyền quyết định, vào tay của một nhóm lợi ích lãnh đạo, tư hay công. Sự bất công kinh tế và việc thiếu sự tham gia xã hội tước đoạt việc thực thi các quyền căn bản của con người và xã hội.

11. Niềm hy vọng, được lan rộng trong suốt hai mươi lăm năm qua – đó là việc tăng trưởng kinh tế có thể tạo nên một lượng lớn tài nguyên đến nỗi nó cho phép người nghèo được ăn những vụn bánh từ bàn ăn rơi xuống – đã tỏ ra vô hiệu nơi các nước đang phát triển và nơi các ốc đảo nghèo nàn của các nước phát triển, bởi sự gia tăng nhanh chóng dân số và nhân công, bởi tình trạng trì trệ ở nông thôn và việc thiếu những cải cách ruộng đất, bởi sự di trú hàng loạt đến các thành thị trong đó các nền công nghiệp, với mật độ tư bản dày đặc, cung ứng việc làm quá ít ỏi, đến độ đôi khi nhiều người lao động không có việc làm. Tất cả các áp lực cưỡng bức này liên tục tạo nên những đám đông « những người bên lề xã hội » thiếu ăn, phải ở trong những điều kiện phi nhân, mù chữ, bị tước đi khả năng chính trị như là những điều kiện cần thiết cho trách nhiệm hay cho phẩm giá luân lý.

12. Vả lại, nhu cầu về các nguồn tài nguyên và năng lượng nơi các nước giàu hơn – theo chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội – (cũng như những hệ quả của việc đổ chúng vào không khí hay đại dương) đến nỗi các yếu tố thiết yếu của đời sống trần thế là không khí và nước uống, có thể bị tàn phá cách vô phương cứu chữa nếu các định mức tiêu thụ và ô nhiễm cao không ngừng gia tăng, lại được mở rộng cho toàn thể nhân loại.

13. Sức đẩy mạnh mẽ hướng đến sự thống nhất toàn cầu, sự phân chia bất đồng đều đang để việc kiểm soát ba phần tư các lợi tức, sự đầu tư và thương mại, chỉ cho một phần ba dân số thế giới mà thôi, một phần ba mà đã hưởng tỉ suất tăng trưởng rồi – cũng như sự thất bại của việc phát triển thuần túy kinh tế và sự hiểu biết mới mẻ về những hạn chế vật chất của « sinh quyển » – đã dẫn chúng ta đến chỗ ý thức sự kiện rằng đang nổi lên trong thế giới hiện đại những phương thức mới quan niệm về phẩm giá con người.

Quyền được phát triển
14. Đối diện với những hệ thống thống trị quốc tế, việc thực thi công bằng càng ngày càng gắn kết với ý muốn thăng tiến.

15. Trong các quốc gia đang phát triển, và trong thế giới mang danh xã hội chủ nghĩa, trước tiên ý muốn thăng tiến được khẳng định trong cuộc chiến đấu cho những hình thức đòi hỏi và phát biểu mà chính sự tiến triển của hệ thống kinh tế sinh ra.

16. Khát vọng công bằng này được khẳng định trong bước chuyển qua ngưỡng cửa mà bắt đầu ý thức về một “giá trị hơn và người hơn” (cf. Populorum progressio, 15) cho toàn thể con người và cho mọi người: khát vọng này được bộc lộ trong sự nhận thức về quyền được phát triển. Người ta phải thừa nhận quyền này trong sự thâm nhập năng động lẫn nhau của tất cả các quyền căn bản của con người, trên đó những khát vọng của các cá nhân và các quốc gia được xây dựng.

17. Thế nhưng, ước muốn này sẽ không thể lấp đầy những ước nguyện của thời đại chúng ta nếu nó không biết đến những trở ngại khách quan mà các cơ cấu xã hội sử dụng để đối lại việc cải hóa lòng người, hoặc đối lại việc thực hiện hoàn thành một lý tưởng bác ái. Khát vọng này đòi hỏi vượt lên một tình trạng chung những người sống ngoài lề xã hội, những phong tỏa và những vòng luẩn quẩn đang trở thành những hệ thống, ngăn cản sự thăng tiến tập thể nhờ hưởng được thù lao thích đáng của hoạt động sản xuất và tăng thêm sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận những dịch vụ và phúc lợi xã hội đối với phần lớn dân chúng. Nếu các quốc gia và các vùng đang phát triển thất bại trong cuộc giải phóng họ bằng việc phát triển, thì có một nguy cơ thật sự khiến hoàn cảnh của họ, chủ yếu do sự thống trị thực dân tạo ra, tiến triển thành một chủ nghĩa thực dân mới, trong đó các quốc gia đang phát triển sẽ là nạn nhân của cuộc chơi của các quyền lực kinh tế quốc tế. Như vậy, trước tiên quyền được phát triển này là quyền được hy vọng, được biểu lộ cách tương xứng cụ thể đối với thế hệ chúng ta. Để giải đáp vấn đề này, cần phải giải phóng ý tưởng thay đổi những truyền thuyết và những niềm tin sai lạc mà một cơ cấu tâm thức tù nhân của một khái niệm định mệnh thuyết và máy móc nào đó về tiến bộ vẫn còn lưu truyền.

18. Khi đảm nhận vận mệnh của mình trong một ý muốn thăng tiến, các dân tộc đang phát triển – thậm chí nếu họ không đạt đến kết quả cuối cùng – sẽ thể hiện cách đích thực sự nhân cách hóa của mình. Để đương đầu với những quan hệ bất bình đẳng của vấn đề toàn cầu hiện nay, một chủ nghĩa quốc gia hữu trách mang lại cho họ nhiệt huyết cần thiết để đạt tới căn tính của mình. Chính từ sự tự quyết nền tảng này mà có thể nảy sinh những nỗ lực sáp nhập những tập hợp chính trị mới khả dĩ làm cho sự phát triển toàn vẹn của mình đứng vững được, nảy sinh những biện pháp cần thiết để cất đi những trì trệ cản trở sự phát triển này – như trong một số trường hợp việc áp lực dân số – hoặc nảy sinh những hy sinh mới mà việc kế hoạch hóa gia tăng đòi hỏi nơi một thế hệ để xây dựng tương lai.

19. Mặt khác, người ta không thể ấp ủ một sự thăng tiến thật sự mà không nhận ra sự cần thiết – nơi một chính sách đòi hỏi – về một sự phát triển bao gồm cả tăng trưởng kinh tế và sự dự phần chung chia; về một sự làm giàu mà cùng lúc kéo theo tiến bộ xã hội của toàn thể cộng đồng, trong sự vượt quá những chênh lệch vùng và những lãnh thổ phồn thịnh nằm trong những lãnh địa khác (enclaves de prospérité). Nhưng sự dự phần chung chia tự nó là một quyền phải được áp dụng trong lĩnh vực kinh tế cũng như trong lĩnh vực xã hội hoặc chính trị.

20. Trong khi một lần nữa tái khẳng định quyền được có căn tính của các dân tộc, chúng ta cũng khám phá cách rõ ràng hơn rằng không thể chống chọi lại việc hiện đại hóa có tính phi nhân bằng việc chỉ nại đến những tập quán lịch sử bất khả xâm phạm và những lối sống đáng trân trọng mà thôi. Trái lại, chính khi đón nhận tính hiện đại để biến nó phục vụ cho thiện ích quốc gia mà sẽ có thể tạo ra một nền văn hóa có khả năng xây dựng một “ký ức xã hội” hành động đích thực, sáng tạo một nhân cách đích thực, trong sự đồng lòng giữa  các quốc gia.

Những bất công khôn tả
21. Chúng ta nhận thấy trong thế giới một loạt những bất công làm nên điểm mấu chốt của những vấn đề của thời đại chúng ta, và để giải quyết những vấn đề này đòi hỏi phải có những nỗ lực và trách nhiệm của mọi thành phần trong xã hội, nhất là đối với những vấn đề liên quan đến xã hội toàn cầu mà chúng ta đang tiến tới trong những năm hậu bán thế kỷ XX. Như vậy, chúng ta phải sẵn sàng đảm nhận những trách nhiệm và những công việc phục vụ mới trong mọi lĩnh vực của sinh hoạt nhân loại, và đặc biệt là trong lãnh vực của xã hội toàn cầu này, nếu chúng ta thật sự muốn công bằng trở nên hiện thực. Hành động của chúng ta trước hết phải hướng về những con người và những quốc gia mà, do những hình thức áp bức khác nhau và do đặc tính hiện thời của xã hội chúng ta, là những nạn nhân của sự bất công thầm lặng và thậm chí bị tước mất khả năng được lắng nghe.

22. Chẳng hạn, đó là trường hợp của những người di trú, rất thường bị bó buộc phải rời bỏ quê hương để đi tìm việc làm, mà ở nhiều nơi, cánh cửa khép lại trước mắt họ vì các thái độ phân biệt đối xử, hay nếu được phép vào, thì họ thường buộc phải sống trong tình trạng bất an, đồng thời bị đối xử hạ thấp nhân phẩm. Cũng thế, đối với các nhóm bị gán cho một trình độ thăng tiến xã hội thấp hơn, chẳng hạn như các thợ thuyền và nhất là những nông dân; thế nhưng họ lại góp một phần lớn trong quá trình tiến bộ. Đặc biệt đáng tiếc là trường hợp của hàng triệu người tị nạn, của tất cả các nhóm hay dân tộc bị bách hại – thường dưới cách thức được thể chế hoá – do nguồn gốc chủng tộc, sắc tộc hay bộ tộc của họ. Những sự bách hại như thế vì lý do nguồn gốc thậm chí có thể dẫn đến những cuộc diệt chủng thật sự.

23. Cũng vậy, trong nhiều vùng, sự công bằng bị nhạo báng một cách nghiêm trọng nơi những người bị bách hại vì niềm tin của họ hay nơi những người bị áp bức không ngừng và dưới nhiều cách thức khác nhau, bởi các nhóm chính trị và chính quyền, tuân theo sự tuyên truyền vô thần áp đặt hay bị tước đi quyền tự do tôn giáo: hoặc là họ bị từ chối không cho công khai thờ phượng Thiên Chúa, hoặc họ bị cấm giảng dạy công khai hay truyền bá niềm tin của mình, hoặc họ bị cấm chế mọi hoạt động trần thế tuân theo các nguyên tắc của tôn giáo mình.

24. Công bằng bị cũng bị vi phạm bởi những hình thức áp bức mới phát xuất từ những hạn chế các quyền cá nhân, từ những trấn áp do bởi chính quyền cũng như từ những bạo lực do những phản ứng riêng tư – cho đến những điều kiện cơ bản của sự toàn vẹn bản thân. Người ta biết rõ những trường hợp tra tấn, đặc biệt là đối với những tù nhân chính trị, mà thường bị từ chối xét xử theo tiến trình thông thường, hay phải chịu xét xử một cách độc đoán. Cũng không được quên những tù nhân chiến tranh mà, ngay sau Hiệp Ước Genève, đã bị đối xử một cách phi nhân.

25. Sự tranh luận về sự hợp pháp hóa việc phá thai, về sự bắt buộc dùng những phương tiện tránh thai và những áp lực chống chiến tranh là những hình thức biểu trưng của yêu sách đòi quyền sống.

26. Mặt khác, ý thức của thời đại chúng ta đòi hỏi sự thật trong các hệ thống truyền thông xã hội, điều mà được thể hiện bằng một quyền được các phương tiện truyền thông đại chúng trình bày một hình ảnh khách quan, và vì thế quyền có thể sửa chữa sự thao túng nó.

27. Cũng cần phải nhấn mạnh đến quyền, nhất là đối với trẻ em và người trẻ, được giáo dục, được hưởng các điều kiện sống và được sử dụng các phương tiện truyền thông lành mạnh về mặt luân lý, một lần nữa đang bị đe doạ trong thời đại của chúng ta.

28. Vai trò của các gia đình trong đời sống xã hội chỉ được nhìn nhận cách hiếm hoi và không đầy đủ bởi chính quyền.

29. Cũng không được quên con số đang gia tăng những người bị gia đình hay xã hội bỏ rơi: những người già, trẻ mồ côi, những người tàn tật và tất cả những người bị bỏ rơi.

30. Để thực hiện sự thống nhất mà một xã hội nhân bản toàn cầu đòi hỏi và đang tìm kiếm, vai trò của các trung gian là cần thiết để một ngày nào đó vượt qua những đối lập, những cản trở và những cấu trúc lỗi thời mà chúng ta gặp phải trên con đường  dẫn đến một xã hội nhân bản hơn.

31. Nhưng một trung gian hiệu quả phải bao gồm việc tạo nên một bầu khí đối thoại. Để thực hiện nó dần dần, tất cả mọi người phải có thể gặp nhau mà không phải chịu sự cưỡng ép về những điều kiện địa lý chính trị, ý thức hệ, kinh tế-xã hội hay những rào cản giữa các thế hệ.  Để khôi phục ý nghĩa cuộc sống bằng việc gắn bó với các giá trị đích thực, sự tham gia và chứng tá của những người trẻ là cần thiết như sự trao đổi giữa các dân tộc.

II. SỨ ĐIỆP THÁNH KINH VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI
32. Đứng trước tình trạng của thế giới hiện nay, được đánh dấu bởi tội bất công ngày càng nhiều, một mặt chúng ta cảm thấy trách nhiệm của mình và, mặt khác, cũng cảm thấy bất lực trong việc loại bỏ bất công này. Tình trạng này mời gọi chúng ta lắng nghe Lời Thiên Chúa với thái độ khiêm nhường và cởi mở tâm trí. Chính Lời Chúa sẽ chỉ ra cho chúng ta những con đường mới mẻ cho hành động của mình trong thế giới.
Công lý cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô

33. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tự mặc khải cho chúng ta như là Đấng giải thoát những người bị áp bức và là Đấng bảo vệ những người nghèo khổ. Ngài đòi hỏi con người tin vào Ngài và sống công bằng đối với tha nhân. Chỉ những ai thực thi những nghĩa vụ công bằng đối với con người thì mới thực sự nhận biết Thiên Chúa, Đấng giải thoát những người bị áp bức.

34. Trong hành động và sứ điệp của mình, Chúa Kitô đã nối kết một cách không thể phân chia mối tương quan của con người với Thiên Chúa và mối tương quan giữa con người với nhau. Chúa Kitô đã sống cuộc sống của mình nơi trần thế này, trong sự trao hiến hoàn toàn chính mình cho Thiên Chúa vì loài người. Trong sứ điệp của mình, Ngài đã công bố tình phụ tử của Thiên Chúa cho tất cả mọi người, và sự can thiệp của công lý của Thiên Chúa đối với những người nghèo khổ và những người bị áp bức (x. Lc 6,21-23). Ngài đã liên đới với “những người anh em bé nhỏ nhất” của mình, đến độ đã nói: “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

35. Giáo Hội sơ khai đã sống và hiểu biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô như là lời Thiên Chúa mời gọi hoán cải tin vào Chúa Kitô và yêu thương anh em, được thực hiện nhờ sự giúp đỡ hỗ tương cho đến độ đặt mọi sự làm của chung.

36. Niềm tin vào Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ, và tình yêu tha nhân, là một chủ đề nền tảng của các bản văn Tân Ước. Thánh Phaolô tổng hợp toàn bộ cuộc sống của người Kitô hữu trong đức tin, được thực hiện trong đức mến và trong việc phục vụ tha nhân, mà bao hàm cả những nghĩa vụ về công bằng. Người Kitô hữu sống theo luật của sự tự do nội tâm, trong lời mời gọi thường xuyên hoán cải triệt để từ sự tự mãn của mình đến tin tưởng vào Thiên Chúa, và từ tính ích kỷ của mình đến tình yêu tha nhân vô vị lợi. Đó là sự giải thoát đích thực của người Kitô hữu và là sự dấn thân của họ cho công cuộc giải thoát những người khác.

37. Sứ điệp của Kitô giáo sáp nhập thái độ của con người đối với tha nhân vào trong chính thái độ của nó đối với Thiên Chúa: lời đáp trả của con người đối với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta qua Chúa Kitô, chỉ trở nên hữu hiệu nhờ tình yêu và việc phục vụ tha nhân. Tình yêu tha nhân và sự công bằng không thể tách rời nhau được. Trên hết, tình yêu đòi buộc tuyệt đối công bằng, nghĩa là thừa nhận phẩm giá và các quyền của tha nhân. Về phần nó, công bằng chỉ đạt đến sự tròn đầy nội tâm trong tình yêu mà thôi. Bởi vì mọi người là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình và là người anh em của Chúa Kitô, nên người Kitô hữu nhận thấy nơi mỗi người chính Thiên Chúa với những đòi buộc tuyệt đối của Ngài về công bằng và tình yêu.

38. Hoàn cảnh hiện nay của thế giới, xét dưới ánh sáng đức tin, mời gọi chúng ta quay trở về với chính cốt lõi của Kitô giáo, và cho phép chúng ta đạt được một ý thức mới về ý nghĩa thực sự và những đòi hỏi cấp bách của nó. Sứ mạng loan báo Tin Mừng ngày hôm nay đòi hỏi sự dấn thân triệt để cho công cuộc giải phóng toàn vẹn con người, ngay từ bây giờ, trong chính thực tại hiện sinh của nó trong thế giới này. Thật vậy, nếu sứ điệp tình yêu và công bằng của Kitô giáo không được thể hiện trong hành động vì sự công bằng trên thế giới, thì nó xem ra khó tin đối với con người người hôm nay.
Sứ mạng của Giáo Hội, phẩm trật và các Kitô hữu

39.  Giáo Hội đã nhận từ Chúa Kitô sứ mạng loan báo sứ điệp Tin Mừng, bao gồm ơn gọi hoán cải từ tội lỗi đến tình yêu của Chúa Cha, tình huynh đệ phổ quát, và qua đó, sự đòi buộc công lý trên thế giới. Vì thế Giáo Hội có quyền và bổn phận công bố sự công bằng ở bình diện xã hội, quốc gia và quốc tế, và tố cáo các tình trạng bất công khi các quyền lợi cơ bản và chính ơn cứu độ con người đòi buộc. Giáo Hội không phải là thực thể duy nhất chịu trách nhiệm về công bằng trên thế giới; tuy nhiên trong lĩnh vực này, Giáo Hội có một trách nhiệm đặc thù và riêng biệt, được đồng nhất với sứ mạng làm chứng trước mặt thế gian về sự đòi buộc bác ái và công bình được chứa đựng trong sứ điệp Kitô giáo, lời chứng mà Giáo Hội sẽ phải thực hiện trong các thể chế riêng của mình và trong đời sống các tín hữu.

40. Giáo Hội, với tư cách là cộng đồng tôn giáo và phẩm trật, không có các giải pháp cụ thể về trật tự xã hội, chính trị hay kinh tế cho sự công bằng trên thế giới. Nhưng sứ mạng của Giáo Hội bao hàm việc bảo vệ và thăng tiến phẩm giá và các quyền căn bản của nhân vị.

41.  Các thành viên của Giáo Hội, cũng như các thành viên của xã hội dân sự, có quyền và nghĩa vụ theo đuổi công ích như các công dân khác. Các Kitô hữu phải hoàn thành các trách nhiệm trần thế của họ bằng khả năng và sự thành tín. Họ phải hành động như chất men trong cuộc sống gia đình, nghề nghiệp, xã hội, văn hoá và chính trị của họ. Trong tất cả các lĩnh vực này, chính họ phải nhận trách nhiệm riêng của mình, bằng cách để mình được dẫn dắt bởi tinh thần của Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội. Họ cũng làm chứng về quyền năng của Chúa Thánh Thần trong hành động phục vụ anh chị em của họ, ở những nơi mà cuộc sống và tương lai của họ thể hiện. Trong các hoạt động này, nói chung họ tự nguyện hành động mà không lôi kéo theo trách nhiệm của hàng giáo phẩm của Giáo Hội; tuy nhiên, ở đây, họ dấn thân cách nào đó trách nhiệm của Giáo Hội, bởi vì họ là thành viên.

III. THỰC HÀNH  SỰ CÔNG BẰNG
Chứng tá của Giáo Hội
42. Nhiều Kitô hữu được thúc đẩy tới những lời tuyên xưng đích thực về sự công bằng qua những lối hành động khác nhau vì công bằng, được thôi thúc bởi lòng bác ái theo ân sủng nhận được từ Thiên Chúa. Đối với một số người, hành động này nằm trong lãnh vực của những cuộc xung đột xã hội hay chính trị trong đó các Kitô hữu làm chứng cho Tin Mừng bằng cách cho thấy rằng, trong lịch sử, có chỗ cho các nguồn tiến bộ khác với việc đấu tranh, đó là tình yêu và luật pháp. Sự ưu tiên cho tình yêu trong lịch sử này đã dẫn các Kitô hữu khác thích chọn con đường hành động bất bạo động và hành động trên công luận.

43. Nếu Giáo Hội phải làm chứng cho công bằng, thì Giáo Hội nhìn nhận rằng bất cứ ai dám nói với người khác về sự công bằng, thì trước tiên họ phải sống công bằng trước mắt những nguời đó. Vậy ở đây phải tra vấn một cách cẩn thận các thủ tục, những thủ đắc và những nếp sống của Giáo Hội.

44. Các quyền trong nội bộ Giáo Hội phải được tôn trọng. Không một người nào phải chứng kiến mình bị lấy đi những quyền thông thường đó, bởi vì họ được liên kết với Giáo Hội bằng cách này hay cách khác. Những người làm việc cho Giáo Hội – bao gồm các linh mục và tu sĩ – phải nhận được những phương tiện sinh kế đầy đủ, và được hưởng các bảo hiểm xã hội, tùy theo những điều kiện của các nước khác nhau. Phải dành cho giáo dân sự bình đẳng trong việc đối xử và trong việc thăng tiến. Chúng ta nhấn mạnh để giáo dân có một vai trò thực thi quan trọng hơn trong trách nhiệm đối với các tài sản của Giáo Hội và để họ được tham dự vào việc quản lý các tài sản này.

45. Chúng tôi cũng muốn các phụ nữ đảm nhận phần trách nhiệm và tham dự riêng của họ trong đời sống cộng đồng của xã hội và thậm chí của Giáo Hội.

46. Chúng tôi đề xuất thực hiện một cuộc nghiên cứu sâu xa đối với vấn đề này bằng những phương thế thích hợp, chẳng hạn một ủy ban hỗn hợp những người nam và nữ, tu sĩ và giáo dân thuộc các hoàn cảnh và những lãnh vực khác nhau.

47. Giáo Hội công nhận tất cả mọi người có quyền tự do ngôn luận và tư tưởng đúng đắn, bao gồm cả quyền cho mọi người được lắng nghe trong một tinh thần đối thoại tôn trọng của tính đa dạng chính đáng trong Giáo Hội.

48. Thủ tục tư pháp phải đảm bảo cho bị cáo có quyền biết những người tố cáo họ và quyền được bào chữa thích hợp. Công bằng, để trọn vẹn, bao hàm một sự nhanh chóng trong thủ tục. Điều này đặc biệt được yêu cầu đối với các vụ kiện về hôn nhân.

49. Cuối cùng, các thành phần của Giáo Hội phải có một sự tham gia nào đó vào việc chuẩn bị những quyết định, theo những chỉ thị được Công đồng Vatican II và Tòa Thánh đưa ra, ví dụ để thành lập các hội đồng ở mọi cấp bậc.

50. Dù việc sử dụng các của cải vật chất là thế nào, nhưng đừng bao giờ đi đến chỗ làm cho mơ hồ chứng tá của Tin Mừng mà Giáo Hội phải mang lại. Việc duy trì một số tình trạng đặc quyền phải liên lỉ tuân theo tiêu chí của nguyên tắc này. Nói chung, nếu còn khó khăn để vạch ra một giới hạn giữa những gì cần thiết cho việc vận hành tốt và những gì mà một chứng tá ngôn sứ đòi hỏi, thì vẫn còn một nguyên tắc cần được giữ vững: chính niềm tin của chúng ta đòi hỏi chúng ta một sự điều độ nào đó trong việc sử dụng và Giáo Hội phải sống và quản lý tài sản của mình làm sao để Tin Mừng được loan truyền cho những người nghèo. Nếu sống khác đi, thì Giáo Hội sẽ xuất hiện như thuộc về những người giàu có và những người quyền lực của thế giới này, và tính khả tín của Giáo Hội vì thế sẽ bị hạ thấp.

51. Việc kiểm điểm lương tâm của chúng ta phải mở rộng ra cho nếp sống của mọi người: giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân. Trong các nước nghèo, vấn đề là tự hỏi liệu việc thuộc về Giáo Hội có làm cho bước vào một ốc đảo giàu có ở giữa đại đa số những nghèo khổ không. Trong những xã hội tiêu thụ cao, câu hỏi sẽ là liệu lối sống của chúng ta có mang lại mẫu gương về sự điều độ tiêu thụ mà chúng ta đang giảng dạy cho người khác như là cần thiết để nuôi sống hàng triệu người đói khổ trong thế giới này không.

Giáo dục về công bằng
52. Đời sống thường nhật của người tín hữu, giống như men Tin Mừng, ở nhà, ở trường, ở công sở, trong đời sống xã hội và dân sự, cuộc sống đó là một sự đóng góp đặc thù của người Kitô hữu vào sự công bằng – đồng thời đó cũng là những viễn ảnh và ý nghĩa mà họ có thể mang đến cho nhiệm vụ của nhân loại. Nếu quả như thế, thì lúc đó nền giáo dục cần được đưa ra phải là nền giáo dục có thể đào tạo cho con người định hướng cuộc sống của mình, trong tính toàn diện của nó, theo những nguyên tắc Tin Mừng về luân lý cá nhân và xã hội, được diễn tả qua chứng tá Kitô hữu sống động.

53. Những ngăn trở đối với sự tiến bộ mà chúng ta mong muốn cho chính chúng ta và cho mọi người là rõ ràng. Phương thức giáo dục hiện hành vẫn còn quá thường tạo điều kiện cho một thứ chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi. Một bộ phận của gia đình nhân loại đang sống chìm ngập trong não trạng cổ xuý cho sự chiếm hữu. Trường học và hệ thống truyền thông, thường bị chi phối bởi trật tự hiện hành, chỉ có thể đẽo tạc nên mẫu người như trật tự này đòi hỏi, một con người theo hình ảnh của nó, chứ không phải là một con người mới, mà là một sự tái sản xuất một con người như nó là.

54. Một nền giáo dục như thế mời gọi một sự thay đổi tâm hồn, đặt nền tảng trên việc nhận ra tội lỗi trong những biểu hiện cá nhân và xã hội của nó. Nó cũng sẽ phải khắc sâu vào tâm trí một cách thức hoàn toàn nhân bản sống trong công bình, tình yêu và sự đơn sơ. Nó cũng sẽ khơi dậy khả năng phê bình, mà sẽ dẫn đến suy tư về xã hội trong đó người ta sống, về những giá trị của nó, đồng thời sẵn sàng từ bỏ chúng khi chúng không còn cổ vũ sự công bằng đối với mọi người. Trong những nước đang phát triển, nhiệm vụ chính yếu của nền giáo dục về công bằng này hệ tại trong một nỗ lực ý thức về hiện trạng cụ thể và trong lời mời gọi đến một tình trạng hạnh phúc cao hơn qua đó khởi đầu cho một sự biến đổi thế giới.

55. Vì nền giáo dục này mang tính nhân bản hóa một cách sâu xa, nên nó sẽ giúp con người không còn là đối tượng bị thao túng, hoặc bởi các hệ thống truyền thông, hoặc bởi các lực lượng chính trị, nhưng nó sẽ giúp con người có khả năng làm chủ số phận của mình và tạo ra những cộng đồng thật sự nhân bản.

56. Thật có lý khi một nền giáo dục như thế được gọi là thường xuyên, vì nó đạt đến tất cả mọi người, mọi lứa tuổi. Nó còn là một nền giáo dục thực tiễn, vì nó được thực hiện bởi hành động và sự tham gia, và dưới ảnh hưởng sống còn của những thực tại bất công.

57. Giáo dục về công bằng trước tiên là công trình của gia đình. Chúng ta biết rõ rằng không chỉ các tổ chức của Giáo hội cộng tác vào đó, mà còn các trường học, các nghiệp đoàn và các đảng phái chính trị khác nữa.

58. Nội dung của một nền giáo dục như thế nhất thiết bao hàm việc tôn trọng nhân vị và phẩm giá của nó. Trước hết, vì đây là vấn đề công bằng thế giới, nên ta sẽ nhấn mạnh đến tính hiệp nhất của gia đình nhân loại trong đó con người được sinh ra, theo sự an bài của Thiên Chúa. Đối với các Kitô hữu, dấu chỉ của tình liên đới này sẽ là sự kiện mọi người đều được dự định tham dự vào bản tính thần linh trong Chúa Kitô.

59. Người ta tìm thấy các nền tảng để đưa Phúc Âm vào đời sống xã hội trong một tổng thể hữu cơ về học thuyết, được đề nghị dần dần và đúng lúc từ Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự) cho đến Tông thưOctogesima adveniens (Bát Thập Niên). Với Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng) của Vatican II, Giáo Hội đã nhận thức tốt hơn chỗ đứng của mình trong thế giới, một trong những nơi mà người Kitô hữu thực hiện ơn cứu rỗi của mình qua việc thực thi sự công bằng. Thông điệp Pacem in Terris (Hòa Bình trên Thế Giới) đã mang lại cho chúng ta một hiến chương nhân quyền thật sự. Công bằng thế giới bắt đầu chiếm một chỗ ưu tiên trong Thông điệp Mater et Magistra (Mẹ và Thầy); điều này đã được đào sâu, trong Thông điệp Populorum progressio (Phát triển các Dân Tộc), bằng một khảo luận thật sự về quyền được phát triển. Cuối cùng, ta tìm thấy trong Octogesima adveniens một tổng thể các định hướng cho hoạt động chính trị.

60. Như thánh Tông đồ, chúng ta được khuyến khích khi thuận lợi cũng như khi không thuận lợi, để hiện tại hóa Lời Thiên Chúa ngay giữa lòng của những hoàn cảnh nhân sinh. Những can thiệp của chúng ta muốn là sự diễn tả về một đức tin dấn thân cuộc sống của chúng ta và cuộc sống của các tín hữu hôm nay. Chúng ta muốn rằng chúng phải luôn luôn phù hợp với những hoàn cảnh nơi chốn và thời gian. Sứ mạng của chúng ta đòi buộc chúng ta phải có can đảm tố giác những hoàn cảnh bất công cách bác ái, khôn ngoan và cương quyết, trong một cuộc đối thoại thẳng thắn với tất cả mọi bên liên quan. Cuối cùng, chúng ta biết rằng những lời tố giác của chúng ta chỉ có thể dành được sự tán thành trong mức độ chúng sẽ hài hòa với đời sống chúng ta và nằm trong một hành động liên lỉ.

61. Phụng vụ mà chúng ta cử hành như trung tâm của đời sống Giáo Hội có thể trở thành nơi ưu tiên cho việc đào tạo về công bằng. Tạ ơn Chúa Cha trong Chúa Kitô, Giáo Hội, do đặc tính cộng đoàn của mình, biểu lộ những mối liên hệ huynh đệ của chúng ta và không ngừng nhắc lại cho chúng ta về sứ mạng của Giáo hội. Phụng vụ Lời Chúa, việc dạy giáo lý và việc cử hành các Bí tích có khả năng làm cho chúng ta gặp lại các bài giáo huấn quan trọng về công bằng của các Ngôn sứ, của Chúa và các Tông đồ. Việc chuẩn bị cho Bí tích Rửa tội khởi đầu việc đào tạo lương tâm Kitô hữu. Việc thực hành Bí tích Sám hối phải làm nổi bật chiều kích xã hội của tội lỗi và của Bí tích. Sau cùng, Thánh Thể làm nên cộng đoàn và đặt cộng đoàn ấy vào việc phục vụ con người.

Sự hợp tác giữa các Giáo Hội địa phương
62. Để trở nên một dấu chỉ hữu hiệu của sự liên đới mà gia đình nhân loại khao khát, Giáo Hội phải thể hiện, trong đời sống của mình, một sự hợp tác mạnh mẽ hơn giữa các Giáo Hội của các nước giàu và các nước nghèo, trong sự hiệp thông thiêng liêng và trong việc chia sẻ các nguồn nhân lực và vật chất. Những thiện ý trợ giúp quảng đại hiện nay giữa các Giáo Hội có thể được thực hiện tốt hơn trong một sự phối hợp thực sự(Bộ Phúc Âm hoá các Dân Tộc và Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm), trong một viễn ảnh quản lý chung các ân huệ của Thiên Chúa, trong một sự liên đới huynh đệ luôn cổ võ quyền tự trị và trách nhiệm của các người thụ hưởng đối với việc ấn định các tiêu chuẩn và sự chọn lựa các dự phóng cụ thể, cũng như việc thực hiện chúng.

63. Việc hoạch định này không được giới hạn ở các dự án kinh tế, nhưng còn cho phép các hoạt động khả dĩ thăng tiến việc đào tạo nhân bản và thiêng liêng, đảm bảo chất men cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con người.

Sự cộng tác đại kết
64. Khi ghi nhận những điều đã được thực hiện trong lĩnh vực này, với Công đồng Vatican II chúng ta mạnh mẽ kêu gọi sự hợp tác với các anh em Kitô hữu ly khai để thăng tiến công bằng, để xây dựng hoà bình và để thực hiện sự phát triển các dân tộc. Trước tiên, sự hợp tác này liên hệ tới các hoạt động nhằm bảo vệ nhân phẩm và các quyền cơ bản của nhân vị, và đặc biệt quyền tự do tôn giáo; từ đó có nỗ lực chung để đấu tranh chống lại những kỳ thị liên quan đến tôn giáo, chủng tộc, màu da, văn hoá v.v… Sự cộng tác này cũng trải dài trên việc nghiên cứu giáo lý của Tin Mừng liên quan đến mọi hoạt động Kitô hữu. Văn Phòng Hiệp Nhất các Kitô hữu và Uỷ Ban Giáo Hoàng Công lý và Hoà Bình cùng có chung trách nhiệm thăng tiến cách hữu hiệu sự hợp tác đại kết này.

65. Chính trong tinh thần đó, chúng tôi cũng kêu gọi sự hợp tác trong lãnh vực của công bằng xã hội, của hoà bình và của tự do với tất cả những ai tin vào Thiên Chúa; và cũng như ngay cả với những ai, dù không nhìn nhận Đấng Tác Tạo thế giới, vẫn chấp nhận các giá trị nhân bản và tìm kiếm công bằng cách chân thành và bằng những phương thế chính trực.

Hành động quốc tế
66. Thượng Hội Đồng, có tính cách toàn cầu, quan tâm đến những vấn đề về công bằng vốn liên hệ trực tiếp đến cả gia đình nhân loại. Do đó, nhận thấy tầm quan trọng của hợp tác quốc tế vì sự phát triển kinh tế xã hội, trước hết chúng tôi lấy làm vui mừng trước công việc vô giá mà các Giáo Hội địa phương, các vị thừa sai và các tổ chức nâng đỡ các vị ấy, đã làm nơi những dân tộc nghèo; chúng tôi cũng dấn thân giúp đỡ các phong trào và các cơ quan hoạt động vì hòa bình, vì công bằng quốc tế và sự phát triển của con người. Chúng tôi khuyến khích người công giáo chú ý tới những đề nghị sau:

67. (1) Nhìn nhận trật tự thế giới được bén rễ sâu vào các quyền và phẩm giá không thể chối bỏ của con người. Các chính phủ vẫn còn chưa tán thành công ước về Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc hãy thông qua Tuyên ngôn này và hoàn toàn tuân thủ nó.

68. (2) Liên Hiệp Quốc, vì mục tiêu của mình, phải đẩy mạnh sự tham gia của tất cả các quốc gia – và các tổ chức quốc tế cần được ủng hộ như là bước đầu cho một hệ thống có khả năng kìm hãm việc chạy đua vũ trang, giúp loại bỏ việc buôn bán vũ khí, thực hiện việc giải trừ quân bị và giải quyết các xung đột bằng những phương thế hành động hòa bình theo luật pháp, những phương thế hòa bình trong việc phân xử và chính sách quốc tế. Điều tuyệt đối cần thiết là, những khác biệt giữa các quốc gia không thể giải quyết bằng chiến tranh, nhưng bằng những biện pháp khác phù hợp với bản tính con người; hơn nữa cần cổ xúy cho hành vi bất bạo động và mỗi quốc gia nhìn nhận về mặt luật pháp quyền phản đối lương tâm và cho nó một quy chế.

69. (3) Các mục tiêu của thập kỷ phát triển thứ hai – trong đó có việc chuyển một tỷ lệ phần trăm thu nhập nhất định hằng năm của các quốc gia phát triển cho các quốc gia đang phát triển, những giá cả hợp lý đối với các nguyên liệu, việc mở cửa thị trường của các quốc gia phát triển và, trong một vài lĩnh vực, có hành động ưu đãi đối với những sản phẩm xuất khẩu được sản xuất từ những quốc gia đang phát triển  – cần được khuyến khích như là bước đầu phác thảo cho việc đánh thuế dần dần và cho một hệ thống kinh tế và xã hội  trên toàn thế giới. Chúng tôi lấy làm tiếc việc hoàn toàn từ bỏ ý tưởng chia sẻ và trách nhiệm toàn cầu này từ phía các nước giàu. Chúng tôi hy vọng rằng một tình liên đới quốc tế còn yếu như thế sẽ không làm mất đi mọi nỗ lực thảo luận về thương mại được chuẩn bị bởi Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển (CNUCED).

70. (4) Việc tập trung quyền lực, được thể hiện qua sự thống trị kinh tế, hầu như hoàn toàn về việc nghiên cứu, về đầu tư, về cước vận chuyển và bảo hiểm, cần được bù trừ dần dần bằng các quy định thể chế vốn củng cố quyền hạn và những khả năng quyết định có trách nhiệm của những quốc gia đang phát triển, cũng như bằng việc họ tham gia cách trọn vẹn và bình đẳng vào các tổ chức quốc tế đang quan tâm đến việc phát triển. Trên thực tế, việc mới đây họ bị loại trừ khỏi những đàm phán về thương mại thế giới, cũng như những quy định về tiền tệ vốn ảnh hưởng cách sống còn đến số phận của họ, là một ví dụ của việc thiếu quyền hạn không thể chấp nhận được trong một trật tự thế giới công bằng và trách nhiệm.

71. (5) Dù nhìn nhận rằng các tổ chức quốc tế, với tư cách là toàn bộ thể hiện của con người, có thể được kiện toàn và tăng cường, thế nhưng chúng tôi cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các cơ quan đặc biệt của Liên Hiệp Quốc, nhất là những cơ quan trực tiếp lo những vấn đề tức thời và lớn lao về nạn nghèo đói trên thế giới, trong lĩnh vực cải cách ruộng đất và những tiến bộ của nông nghiệp, về sự sung túc của gia đình, về y tế, về giáo dục, về việc làm, về nhà ở và đô thị hóa toàn cầu. Chúng tôi muốn lưu ý cách đặc biệt cần có một “nguồn quỹ” tầm mức thế giới có thể cung cấp đầy đủ lương thực, đặc biệt là protêin, để đảm bảo cho sự phát triển thật sự về thể chất và tinh thần của trẻ em. Đối diện với việc bùng nổ dân số, chúng tôi đọc lại định nghĩa về bổn phận chung đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI đưa ra trong Thông điệp Populorum Progressio: “Công quyền, trong phạm vi quyền hạn của mình, có thể can thiệp, bằng cách phát triển một thông tin thích hợp và dùng những biện pháp thích ứng, miễn là những biện pháp đó phù hợp với đòi buộc của luật luân lý và tôn trọng sự tự do chính đáng của vợ chồng” (số 37).

72. (6) Các chính phủ cần tiếp tục những đóng góp cá nhân cho quỹ phát triển, nhưng trong nỗ lực hết sức có thể, họ hãy tìm kiếm thực thi bằng con đường đa phương, bằng cách tôn trọng hoàn toàn trách nhiệm của các nước đang phát triển, những nước này phải được tham gia vào những quyết định liên quan đến các ưu tiên và đầu tư.

73. (7) Đối với chúng tôi, cũng cần phải nhấn mạnh đến mối quan ngại mới về hành tinh, nó sẽ là đề tài cho Hội nghị tại Stockholm về môi trường nhân loại, dự kiến sẽ diễn ra tháng 6/1972. Người ta không hiểu làm thế nào các nước giàu có thể còn tham vọng tăng cường những đòi hỏi vật chất cho mình nếu hậu quả cho những nước khác hãy còn đó, hoặc là vẫn còn sống trong nghèo đói, hoặc là nguy cơ có thể phá hủy những nền móng vật lý của sự sống hành tinh. Cho nên những ai đã giàu rồi thì cần phải chấp nhận các nếp sống ít duy vật hơn, như thế sẽ ít làm lãng phí hơn, để tránh phá hủy di sản mà họ được kêu gọi chia sẻ với phần còn lại của nhân loại trong tất cả sự công bằng.

74. (8) Để thực hiện quyền phát triển:
a) Không được ngăn trở các dân tộc phát triển theo các nét đặc trưng văn hóa riêng;
b) Chính mỗi dân tộc, khi hợp tác với nhau, đều có thể là tác nhân chính của sự tiến bộ kinh tế và xã hội của mình;
c) Mỗi dân tộc đều có thể tham gia thực hiện công ích toàn cầu với tư cách là thành viên tích cực và có trách nhiệm của xã hội nhân loại, tham gia vào một kế hoạch bình đẳng với các dân tộc khác.

Những ước mong của Thượng Hội Đồng
75. Sự ý thức mà chúng ta đã cùng nhau sống, về việc can dự của Giáo Hội trong hành động vì công bằng, vẫn sẽ không có hiệu lực nếu nó không được thể hiện trong đời sống của các Giáo Hội địa phương và ở tất cả các cấp độ. Chúng tôi đề nghị các Hội nghị Giám mục nối dài những viễn ảnh mà chúng ta đã thoáng thấy trong Hội Nghị này và vận dụng những lời khuyên mà chúng tôi đã trình bày, chẳng hạn việc thiết lập các trung tâm nghiên cứu xã hội và thần học.

76. Chúng tôi cũng đề nghị rằng Ủy ban Giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình, trong liên hệ với Hội đồng thư ký Thượng Hội Đồng và các nhà hữu trách có thẩm quyền, có nhiệm vụ nêu bật, đánh giá và nghiên cứu sâu hơn nữa những ước mong và những lời khuyên của Hội Nghị chúng tôi, để những gì chúng ta đã khởi sự được hoàn tất tốt đẹp.

IV. NIỀM HY VỌNG
77. Sức mạnh của Thánh Thần, Đấng đã phục sinh Đức Kitô từ cõi chết, luôn hoạt động trong thế giới này. Dân Thiên Chúa hiện diện, thường xuyên bởi những người con xuất sắc của Giáo Hội, giữa người nghèo, người bị áp bức, người bị bách hại, đang sống cuộc khổ nạn của Đức Kitô trong thân xác và tâm hồn của họ và làm chứng về sự phục sinh của Người.

78. Thật vậy, muôn loài thụ tạo đang rên siết chờ ngày sinh nở, khát mong biểu lộ sự tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa (cf. Rm 8, 22). Các Kitô hữu phải tin chắc rằng những thành quả của bản tính và nỗ lực của họ, sau này họ sẽ gặp thấy chúng được thanh tẩy khỏi mọi vết bẩn trong miền đất mới mà Thiên Chúa chuẩn bị cho họ và là nơi công bằng và tình yêu sẽ ngự trị: khi Chúa trở lại, Vương quốc của Người sẽ đạt đến sự hoàn tất viên mãn.

79. Niềm hy vọng vương quốc tương lai đến cư ngụ trong lòng mọi người. Sự biến đổi tận căn của thế giới trong cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô mang lại ý nghĩa tròn đầy cho những cố gắng của con người, và nhất là cho người trẻ, để đẩy lùi bất công, bạo lực, hận thù, và để cùng nhau tiến tới trong công bằng, tự do, huynh đệ, và tình yêu.

80. Khi loan báo Tin Mừng của Chúa Cứu Thế và Đấng Cứu Độ, Giáo Hội kêu gọi mọi người, đặc biệt là người nghèo, người bị áp bức, người bị bách hại, trở nên những cộng sự viên của Thiên Chúa để giải thoát thế gian khỏi tội lỗi và xây dựng một thế giới vốn chỉ sẽ đạt đến công trình tạo dựng viên mãn khi trở nên hành động của con người cho con người.


[1] Sự tái định hướng của Giáo Hội sau Thượng Hội Đồng lần ba, Nxb. Seuil, Paris, 1972, tr. 152.
[2] x. R. Laurentin, nt., tr. 233.
Nguồn: xuanbichvietnam.net
See more at: http://conglyvahoabinh.org/cong-bang-tren-the-gioi/2013/01/#sthash.BTvpdHca.dpuf


No comments:

Post a Comment