TÔNG HIỆU
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
Vào Lúc 20 giờ 12 ngày 13 tháng 3 năm 2013 (giờ Rôma), Đức
Hồng Y Jean Louis Tauran tuyên bố: “Annuntio vobis gaudium magnum: Habemus
Papam; Eminentissimum ac reverendissimum Dominum, Dominum Jorge Mario, Sanctæ
Romanæ Ecclesiæ Cardinalem Bergoglio, Qui sibi nomen imposuit Franciscum.
" (Tôi thông báo cho anh chị em một niềm vui lớn lao: Chúng ta đã có một
vị giáo tông! Người khả kính và đáng tôn trọng của Thiên Chúa, Jorge Mario, Đức
Hồng Y của Hội Thánh Rôma, Bergoglio, ngài sẽ gọi mình là Phanxicô). Đa số các bản tin tiếng Việt đều dịch “Nomen
pontificale” là tên gọi, tông hiệu.... Vậy Nomen
pontificale phải dịch thế
nào?
1.
Nghĩa của Nomen pontificale (Tiếng
Anh: The pontifical name).
1.1. Nomen: (dt.)
Một chữ, từ hay nhóm chữ dùng để gọi người, nơi chốn, hay sự vật, tên gọi.
1.2. Pontificalis: (tt.)
Thuộc về đức thánh cha, thuộc về Chúa, thuộc về giám mục hay thượng tế.
1.3. Nomen pontificale: Còn gọi
là nomen papa (Tiếng Anh: papal name) Thường người ta chỉ dịch là tên gọi của
đức thánh cha, cũng có người dùng tông hiệu.
1.4. Tông hiệu là danh xưng mới gắn với chức vụ giáo
tông trong nhiệm kỳ của ngài. Ở những thế kỷ đầu, sau khi nhậm chức,
đức giáo tông vẫn dùng tên khai sinh của mình cho nhiệm kỳ giáo tông, sau này
mới có việc chọn một tên khác. Vị đầu tiên thực hiện việc này là Đức Giáo Tông
Gioan II vào năm 533. Tên khai sinh của ngài là Mercurius (sao Thuỷ), là tên của vị thần ngoại
giáo, nên ngài đổi tên này. Từ đó hình thành thói quen dùng tông hiệu. Vị cuối
cùng dùng tên khai sinh của mình làm tông hiệu là Đức Giáo Tông Marcellus II vào năm 1555. Thông
thường, tông hiệu được chuyển sang tiếng địa phương. Ví dụ Đức Thánh Cha
Franciscus (Latinh) tiếng Ý là Francesco, tiếng Tây Ban Nha là Francisco, tiếng
Pháp là François, tiếng Anh là Francis, tiếng Việt là Phanxicô, tiếng Hoa là
Phương Tế Các[1].
Kể từ Đức Gioan XXIII, tông hiệu trở thành cách nhấn mạnh về đường hướng mục vụ
ngài nhắm tới, mà không nhắm đến mục đích khác. Ví dụ Đức Giáo Tông Phanxicô,
Ngài sẽ ưu tiên lo cho người nghèo và bệnh tật. Một khi được bầu làm giáo tông,
quyết định quan trọng đầu tiên của ngài là chọn tông hiệu, việc này đã trở
thành truyền thống, mặc dù không có luật hay quy tắc yêu cầu một vị giáo tông
chọn một tên khác làm tông hiệu. Sự lựa chọn này phản ảnh linh đạo cá nhân của
ngài. Tông hiệu mới cũng cho thấy khuynh hướng thần học ngài muốn áp dụng trong
nhiệm kỳ của ngài.
2.
Nghĩa của tông hiệu.
2.1. Tông: có nhiều chữ Hán縱 (纵), 宗, 嵏, 騣, 騌 (骔), 鬆, 鬉, 鬃, 淙, 琮, 嵕, 悰, 棕, 椶,豵, 鬷. Trong
trường hợp này là chữ 宗 (tông), thuộc loại chữ hội ý. Có bộ 宀(miên)
và chữ示 (thị). 宀(miên)
nghĩa là nhà, 示 (thị) nghĩa
là thần, là tế tự tổ tiên trong nhà. Chữ này theo phiên thiết
là作 (tác) 東 (đông), lấy âm “t” của chữ “tác” nối với âm “ông” của chữ “đông” nên
phải đọc là tông. Vỗn chữ này trước thời triều Nguyễn vẫn đọc là tông, sau vì
kiêng huý vua Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông) mới đọc là tôn, vì vậy thuật từ
nào có liên quan đến chữ này đều đọc là tôn, như: tôn giáo, nhưng lại nói tông
đường. Tông hay tôn có những nghĩa sau đây: dt (1) Tổ tiên: liệt tông; (2) Ông tổ, người
sáng lập; (3) Đính trưởng tử: Tông
huynh. (4) Miếu thờ tổ tiên: tông
miếu; (5) Họ hàng: đồng
tông; (6) Căn bản, cái gốc,
đáng làm mẫu: tông sư (người được người khác noi theo), nhất đại thi tông (nhà thơ giỏi nhất đương thời);
(7) Nhóm theo cùng một thuyết: chính
tông; tông giáo (chủ
thuyết dạy lối phải tin tưởng và hành động: religion); (8) Họ Tông; (9)
Danh hiệu của vua; đt (10) Kính trọng; (11) Tôn sùng; tt (12) Cùng họ với nhau; (13) Chủ yếu:
tôn chỉ; (lượng từ) (14) Từ giúp đếm, (sự, món,
vu): Nhất tông tâm sự.
Nghĩa
Nôm: Giống nòi qua các thế hệ: Yêu nhau yêu cả đường đi; ghét nhau
ghét cả tông chi họ hàng.
2.2. Hiệu: có nhiều chữ Hán: 校, 效, 効, 號 (号), 恔, 斆, 斅 (敩), 皎, 顥, 颢, 傚, trong trường hợp này là chữ號,
nghĩa là: (dt.) (1)
Tên: Quốc hiệu. (2) Biệt danh: biệt hiệu(tên tự chọn).
(3) Mệnh lệnh: Hiệu lệnh.
(4) Cơ sở làm ăn: Phân hiệu (chi nhánh). (5) Cỡ: Đại hiệu (cỡ lớn). (6) Dấu: Ký hiệu. (7) Dấu trong toán
học: Gia hiệu (dấu cộng). (8) Số sắp theo thứ tự: Điện thoại hiệu mã (số điện thoại). (9) Loại: Giá hiệu nhân vật (loại người này). (10) Kèn lệnh: Quân hiệu. (đt.)
(11) Kêu gọi: Hiệu triệu toàn
dân (kêu gọi toàn dân). (12)
Lệnh: Phát hiệu. (13)
Tuyên bố, khoe: Hiệu xưng
thiện hạ đệ nhất (tuyên bố
nhất thế giới). (14) Gọi là: Hiệu
Trương Sở (gọi là Trương Sở).
(14) Bắt mạch: Hiệu mạch.
Nghĩa
Nôm: (1) Tiệm: Hiệu buôn. (2) Ra dấu: Làm hiệu.
2.3. Ngoài tên gọi đã có, đặt thêm tên
thì gọi là hiệu, tức là
biệt hiệu, biệt danh. Hiệu trên thực tế rất quan trọng, thời xưa
những văn sĩ viết văn chỉ dùng hiệu, nếu không biết hiệu của họ, thì cũng không
biết tác giả là ai. Thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221 TCN) bên Trung Quốc đã có
hiệu, như Đào Uyên Minh[2],
hiệu là Ngũ Liễu Tiên Sinh. Thi sĩ Tô Thức[3],
có hiệu là Đông Ba, nhiều người chỉ gọi ông là Tô Đông Ba. Gọi bằng hiệu là tôn
trọng người ta. Trong văn hoá xưa, trực tiếp gọi tên người là vô lễ, nên khi
cần gọi, thì gọi bằng hiệu. Hiệu
có khi phản ảnh tình hình thời đại, có khi thể hiện tình cảm của mình đối với
đất nước hay nói lên ý chí của mình.
2.4.
Tông hiệu: Tên mới gắn với chức vụ của giáo tông. Sau khi được bầu lên làm
giáo tông, theo truyền thống, giáo tông sẽ có tên riêng khác với tên đã có sẵn,
tiếng Latinh cũng chỉ dùng lại chữ nomen (Anh: name), tức là tên thôi. Trong
tiếng Việt có thể dùng chữ hiệu, dùng chữ hiệu ở đây rất hay.
3.
Kết luận. Lựa chọn tông
hiệu không chỉ là một quyết
định mang tính truyền thống và lịch sử, mà còn có ý nghĩa biểu tượng. Theo
truyền thống của Hội Thánh, tân giáo tông sẽ chọn một tông hiệu để thể hiện bản thân mình trong suốt
quá trình lãnh đạo Giáo Hội. Truyền thống này đã được duy trì trong suốt nhiều
thế kỷ qua, mặc dù không có điều luật hoặc quy định nào buộc giáo tông phải lựa
chọn một tên gọi mới (tông hiệu).
Khi
giáo tông có tông hiệu rồi, người ta sẽ gọi ngài bằng tông
hiệu, để tỏ lòng tôn trọng, giống như tên hiệu của người xưa. Nên trong thuật từ Nomen pontificalechữ nomen dịch
là hiệu thì rất đúng. Mà thuật từ Nomen pontificale cũng có người dịch là danh hiệu, thánh
hiệu, như vậy thì không diễn tả được đặc thù của chức vụ giáo tông, nên thiết
nghĩ, thuật từ tông hiệu là đúng nhất.
_______________________________________________________
[1] Franciscus: Người Hoa tại Trung Quốc, Hồng Kông và Việt Nam vẫn dịch là
Phương Tế Các. Riêng tại Đài Loan dịch là Phương Tế, nên đương kim giáo tông
được gọi là Giáo Tông Phương Tế. Ngày 8-4-2013, Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh yêu
cầu Hội Đồng Giám Mục Đài Loan phải thống nhất dịch là Giáo Tông Phương Tế Các.
Việc làm này rất hiếm thấy trong Hội Thánh, nhưng cho thấy tông hiệu rất quan trọng.
No comments:
Post a Comment