GẶP GỠ ơn CỨU ĐỘ
(Luca 19: 1-10 – CN XXXI TN - C)
1.-
Ngữ cảnh
Phần thứ tư (phần cuối của hành trình lên Giêrusalem)
được tác giả Luca trình bày trong phân đoạn 18,15–19,28: phần này tương
ứng với bài tường thuật về hành trình của các Tin Mừng Nhất Lãm. Nhưng
trong khối chất liệu này, ngài thêm vào câu truyện cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu
với ông Dakêu, thủ lãnh người thu thế ở Giêrikhô. Ngài thấy khối người bị đẩy
ra bên lề xã hội Paléttina này cũng là “cái đã mất” mà Đức Giêsu đến để cứu.
2.-
Bố cục
Bản văn có thể chia thành năm đơn vị:
1) Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (19,1);
2) Giới thiệu Dakêu trong quan hệ với Đức Giêsu
(19,2-4);
3) Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (19,5-7):
- Đề nghị của Đức Giêsu (cc. 5-6),
- Phản ứng của dân chúng (phản đối Đức Giêsu) ( c. 7);
4) Dakêu chủ động hoán cải (19,8-9):
- Đề nghị của Dakêu (c. 8),
- Phản ứng của Đức Giêsu (trả lời cho dân chúng) (c.
9);
5) Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”)
(19,10).
3.-
Vài điểm chú giải
-
Giêrikhô (1): Giêrikhô là chặng cuối
trước khi “lên” Giêrusalem. Thành này nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một
tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan
tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc
hoăc các sĩ quan, binh lính Rôma.
-
Dakêu (2): Tiếng Híp-ri là zakkai,
có nghĩa là “trong sạch và vô tội” (x. Er 2,9; Nkm 7,14).
- người
thu thuế (2): x. 3,12. Tên gọi này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês
(do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus (*); pháp: collecteur
d’impôts, Anh: tax collector. Nền hành chánh Rôma qui định nhiều
loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên
việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu
khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế
(Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ
phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ
bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng
thường được người thu thuế áp dụng cách võ đoán, nên họ bị dân chúng khinh bỉ,
và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt
9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo
(x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc 3,2t). Một người
Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao dịch với người thu
thuế. Dakêu “đứng đầu những người thu thuế” (architelônês), tức là ông
phụ trách cả vùng. Như thế, Dakêu càng ở bên lề cộng đồng Do Thái hơn nữa.
- tìm
cách để xem cho biết...(3): Dakêu là người giàu có và có địa vị cao, nhưng
trong lòng ông vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hai động từ “tìm” (HL: zêtein)
và “xem” (HL: idein) cho dù không có tầm mức quan trọng như trong TM
Gioan, vẫn cho thấy là Dakêu không chỉ tò mò muốn “xem cho biết” (như
kiểu nói của chúng ta). Đây là một “cuộc điều tra mang tính Kitô học” của một
người tội lỗi công khai đối lại với thái độ lãnh đạm và thù nghịch của giới
lãnh đạo dân Chúa.
- cây
sung (4), tiếng Hy Lạp là sykomorea. Đây là loại cây có thân thấp,
các cành ngang cứng chắc.
- phải
ở lại (5): Câu này dịch sát là “hôm nay điều cần thiết đối với tôi
là ở lại nhà ông”. Động từ Hy Lạp dei diễn tả một điều nằm trong chương
trình, ý muốn của Thiên Chúa, nằm trong sứ mạng của Đức Giêsu (x. 2,49; 4,43;
12,12; 13,33; 15,32; 22,37; 24,44).
- mừng
rỡ (6): do động từ Hy Lạp chairein. Lc là Tin Mừng về niềm
vui (Dacaria: 1,14; Đức Maria: 1,28; bà con Gioan Tẩy Giả: 1,58; Đức Giêsu chào
đời: 2,10; Đức Giêsu: 10,20; đám đông: 13,17...). Đây là niềm vui do Đấng Mêsia
mang đến.
- nhà
người tội lỗi (7): Luật luân lý cấm vào nhà kẻ tội lỗi.
- phân
nửa tài sản của tôi (8): Mức bồi thường này vượt qua mức Luật đòi hỏi (x. Xh
21,37; Ds 5,5-7; Lv 5,21-24: trả lại món tài sản đã lấy cộng với
1/5 giá trị món đó).
-
Đức Giêsu nói về ông (9), có nghĩa là
Đức Giêsu nói với những người khác. Tập tục Đông phương cho phép người ta tự do
ra vào nhà một người và vây quanh bàn ăn của những khách được mời (x. 7,37).
- Hôm
nay (9, cả c. 5; HL: sêmeron, x. 2,11; 4,21; 13,32.33; 23,43): Đây
là từ ngữ quan trọng của TM Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian
dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những
gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu
(x. 4,18.19; 5,26).