NGHI THỨC CHÚC BÌNH AN TRONG THÁNH LỄ
Giuse Nguyễn Văn Đoán
Bình an luôn luôn là ước
mong của con người khi sống ở trần gian. “Nó là một khát vọng không thể tan
biến trong mỗi trái tim”.[1] Do đó, nó là một trong những chủ đề
thường được người ta chào chúc nhau trong cuộc sống, đặc biệt đối với những
người có nguồn gốc Sêmít. Bất cứ khi nào họ gặp nhau, họ thường chào nhau bằng
cách thức là “Shalom alechem” (Do thái) và “Salaameleikum” (Ả
Rập). Người Do thái dùng chữ Shalom, nghĩa là bình an, để chào nhau.
Hạn từ này có ý nghĩa rất rộng, chỉ tất cả mọi sự thịnh vượng, và có thể dịch
là hạnh phúc[2]
Trong Kinh Thánh, mỗi khi sai các môn đệ ra đi, Chúa Giê-su luôn
căn dặn các ông rằng khi vào bất cứ thành nào, làng nào hay nhà nào, thì trước
tiên hãy nói: “Bình an cho nhà [thành, làng] này!” (Xc. Mt
10,11-13; Lc 10,5-6). Thánh Phao-lô cũng thường bắt đầu và kết thúc lá thư của
ngài bằng lời chào chúc bình an. Bởi vì thánh nhân ý thức rằng bình an rất cần
thiết và quan trọng đối với người Ki-tô hữu, nhất là trong bối cảnh các Ki-tô
đang bị thử thách khi sống đức tin!
Shalom đối với các Ki-tô hữu mà họ mong ước
cho nhau không chỉ là tình trạng không có xao xuyến, lo lắng và căng thẳng,
nhưng còn là trạng thái đầy ơn phúc của Thiên Chúa, được ban cho con người như
là ân huệ của Chúa Thánh Thần. Chính vì vậy, sau khi hứa ban Thánh Thần cho các
môn đệ, Chúa Giê-su ban bình an cho các ông, và Người giải thích rằng bình an
của Người ban tặng trong Thánh Thần không phải là bình an của thế gian, hay nói
cách khác, đó là sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Cho nên dù gặp khó
khăn thử thách cũng đừng lo lắng và xao xuyến (Xc. Ga 14,16-27).
Mẹ Giáo hội tiếp tục
nài xin ơn bình an này cho con cái mình trong các kinh nguyện và trong Phụng
vụ, cách riêng là Phụng vụ Thánh lễ. Trong Thánh lễ, nghi thức chúc bình an dù
không phải là nghi thức tâm điểm, nhưng nó mang ý nghĩa quan trọng trong đời
sống đức tin của người tín hữu. Nếu ý thức một chút về điều này, người tín hữu
sẽ thiết tha và lưu ý hơn trong việc cử hành và chia sẻ bình an với người khác,
bình an mà họ đã lãnh nhận từ Chúa Giê-su Ki-tô (Xc. Ga 24,27).
Trong bài này,
người viết xin trình bày ba mục, đó là: (1) lịch sử của việc trao chúc bình an,
(2) ý nghĩa và (3) cách thực hành việc trao chúc bình an trong Thánh lễ.
1. Lịch sử
Theo Kinh Thánh, cử chỉ
trao ban bình an có ngay từ thời các tín hữu tiên khởi. Điều này đã được thánh
Phao-lô khuyên nhủ các tín hữu ở Côrintô: “Anh
em hãy hôn chào nhau một cách hôn thánh
thiện” (1Cr 16,20). Nhưng ở đây không cho
biết nó diễn ra khi nào. Rất có thể nó diễn ra trong những buổi họp nhau thờ
phượng của các tín hữu, vì lá thư này được viết cho cả cộng đoàn, chứ không
phải cho riêng một cá nhân.
Paul Bernier cho rằng, [3] cử chỉ “hôn chúc bình an” có thể được
đặt ở phần đầu lễ, với ý nghĩa là cách thức chào chúc, đón nhận những người
cùng đến cầu nguyện và thờ phượng; hoặc có thể được đặt sau phần Phụng vụ Lời
Chúa và trước phần Dâng lễ để tượng trưng cho tình huynh đệ và sự thống nhất
trong cộng đoàn trước khi dâng hy lễ (Xc. Mt 5,23-24). Điều này phù hợp
với trình bày của giáo
phụ Hylạp Giustinô (thế kỷ II) khi ngài mô tả về Phụng vụ Thánh Thể để giải
thích cho hoàng đế La mã Antonius Pius (138-169). Ngài mô tả:
Sau khi đọc xong bút
tích của các Tông đồ và Sách các Ngôn sứ, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và
khuyến khích mọi người sống theo các giáo huấn tốt và gương lành tốt đẹp này.
Sau đó chúng tôi đứng dậy, dâng lời cầu nguyện […]. Sau lời nguyện, chúng tôi
hôn và chúc bình an nhau. Tiếp đến, một tín hữu mang bánh và một chén rượu có
pha nước đến cho người chủ sự. [4]
Như vậy, việc trao hôn
bình an ở thế kỷ II được diễn ra sau lời nguyện chung và trước khi dâng của lễ. [5]
Vì vậy, thật ý nghĩa
khi thánh Giám mục Cyprianô thành Carthage (thế kỷ III) cho rằng việc làm hòa
với nhau để có “bình an của Thiên Chúa” là điều kiện để được Thiên Chúa đón
nhận của lễ mà người tín hữu tiến dâng:
Thiên Chúa đã không
nhận lễ vật của kẻ bất hòa và truyền cho họ phải rời bàn thờ, quay về làm hòa
với anh em trước đã, rồi Người mới có thể vui nhận những lời cầu xin phát xuất
từ một tâm hồn hòa thuận. Đối với Thiên Chúa, lễ tế cao cả nhất là niềm bình
an, là tình huynh đệ thuận hòa và là một đoàn dân hiệp nhất nhờ mối hiệp nhất
giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần [6]
Vào đầu thế kỷ IV, việc
trao hôn bình an lại được đặt sau Thánh lễ. Cử
chỉ này nói lên sự đồng tình đối với tất cả những gì vừa xảy ra, và như một lời
khuyến khích nhau sống trọn nghĩa những gì họ vừa cử hành.[7]
Nhưng đến cuối thế kỷ
IV, trong phụng vụ thời thánh Ambrôsiô thành Milan, việc trao chúc bình an lại
diễn ra trước khi lễ vật được mang lên bàn thờ, giống với thế kỷ II.[8]
Tuy nhiên, trong lá thư
gửi cho Decenxiô (khoảng thế kỷ V), Đức Giáo hoàng Innocentê I giải thích rằng
việc trao hôn bình an diễn ra theo sau Kinh nguyện Thánh Thể. Ngài tương phản
giữa việc thực hành ở Rôma với việc thực hành ở các nơi khác. Ngài giải thích
rằng nghi thức này là một sự diễn tả việc ưng thuận của cộng đoàn đối với mầu
nhiệm vừa được cử hành. [9]
Vị trí của việc trao
hôn bình an ở thế kỷ VI cũng như vậy. Khi đem của ăn đàng cho bệnh nhân, người
ta trao cho họ cái hôn bình an trước khi cho họ rước lễ; do đó, nó đã trở thành
nghi thức chuẩn bị cho rước lễ. Dần dần, đến thời Đức Giáo hoàng Grêgôriô Cả,
cử chỉ trao chúc bình an được áp dụng trong Thánh lễ trước khi Hiệp lễ. Trong
thời kỳ này, vì người ta chỉ trao hôn bình an cho những người đã tham dự Thánh
lễ và sẽ rước lễ mà thôi, cho nên những người dự tòng không được rước lễ nên
cũng không nhận được hôn bình an. 10]
Khoảng thế kỷ X, Kinh
xin ơn bình an và hiệp nhất cho Hội Thánh được đưa vào Thánh lễ, khi lễ chặng
viếng Rôma được đưa qua Pháp và Đức. Kinh này mở đầu bằng việc nhắc lại lời hứa
của Chúa Giê-su: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy
cho các con”, và nhờ lời hứa ấy mà xin cho Hội Thánh được bình an và hợp
nhất theo thánh ý Chúa. Vì thấy mình tội lỗi và yếu đức tin, nên khi xin ơn
này, linh mục thưa với Chúa: “Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn
đến đức tin của Hội Thánh Chúa”. [11]
Vào thời Trung Cổ, khi
việc rước lễ trở nên hiếm hoi thì trao hôn bình an trở thành phần bổ túc của
việc rước lễ: linh mục hôn bàn thờ, rồi ngài trao hôn bình an cho hàng giáo sĩ
những người này trao lại cho giáo dân. [12]
Thời Công đồng
Triđentinô, cử chỉ chúc bình an ít khi được thấy, chỉ trừ những ngày lễ trọng.[13]Cụ
thể là theo chữ đỏ của Thánh lễ Tridentinô, sau việc bẻ bánh và những lời tung
hô Chiên Thiên Chúa, tư tế sẽ đọc lời nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã nói
với các tông đồ rằng, Thầy để lại bình an….”. Rồi nếu có trao dấu hiệu bình
an thì ngài sẽ hôn bàn thờ là biểu tượng của chính Chúa Ki-tô như để lãnh nhận
bình an từ nơi Người. Tiếp đó, ngài trao bình an cho các thừa tác viên khác
theo thứ tự phẩm trật (tức là trao cho phó tế); đến lượt mình, thầy phó tế sẽ
trao bình an cho thầy phụ phó tế; rồi thầy phụ phó tế lại trao bình an cho các
thừa tác viên khác nữa; và cuối cùng, dân chúng làm theo một dây chuyền tương
tự. Thực ra, đây là một cung cách trao ban bình an có vẻ hình thức và máy móc. [14]
Cũng vì thời gian này
ít khi sử dụng việc trao hôn bình an, nên người ta cũng có cảm tưởng như nó bị
quên đi.
Đến Công đồng
Vaticanô II, Ủy ban Phụng vụ đã lấy lại nghi thức chúc bình an và đặt ngay sau
Kinh Lạy Cha, như thời của Đức Giáo hoàng Grêgôriô Cả. Cụ thể, nghi thức chúc
bình an được thực hiện từ lời nguyện sau kinh Lạy Cha (“Lạy Cha, xin cứu
chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống
được bình an…”) cho đến trước lời nguyện thầm của linh mục khi chuẩn bị
Hiệp lễ.
Nghi thức chúc bình an
này gồm có:
- Lời nguyện xin ơn bình an, đây là lời nguyện công khai duy nhất dâng lên
Đức Ki-tô trong phần thường lễ. Lời nguyện này được gọi là Kinh Embolismos (thêm vào, đặt vào giữa) và chỉ có
bên Tây phương.
- Tiếp đó, chủ tế và các tín hữu chúc
bình an cho nhau. Chủ tế chúc bình an cho các tín hữu bằng công thức: “Bình an của Chúa…” (Pax Domini…) và cộng đoàn đáp lại. Vì công thức này
thực ra chưa phải là một lời mời trao đổi, nên liền sau đó, phó tế hay vị chủ
tế còn thêm: “Anh chị em hãy
chúc bình an cho nhau”.[15] Lúc này các tín hữu diễn tả dấu bình
an của tình huynh đệ cho những người gần mình.[16]
- Cuối cùng là Kinh Lạy Chiên Thiên
Chúa, trong đó, kết thúc bằng lời cầu: “xin
ban bình an cho chúng con” (dona nobis pacem).
Như vậy, việc
chúc bình an đã có từ rất sớm trong cộng đoàn các tín hữu khi họ tụ họp để thực
hành Lễ Bẻ Bánh, nhưng nó được đặt ở những vị trí khác nhau tùy theo mỗi thời
đại và mỗi khu vực. Do đó, ý nghĩa của nó cũng được giải thích khác nhau.
2. Ý nghĩa
Như trong phần lịch sử
đã trình bày, có nhiều vị trí khác nhau để cử hành nghi thức chúc bình an, như:
hoặc trước phần Đầu lễ, hoặc sau phần Phụng vụ Lời Chúa và trước phần dâng lễ,
hoặc sau Kinh Lạy Cha và trước phần Hiệp lễ, hoặc sau phần Kết lễ. Ngày nay,
trong các Hội Thánh Công giáo Đông phương và Tây phương, nghi thức chúc bình an
xuất hiện ở hai vị trí khác nhau trong Thánh lễ, và ý nghĩa của nó được giải
thích gắn liền với vị trí mà mỗi nơi đặt để.
a. Ý nghĩa của
nghi thức chúc bình an ở Giáo hội Công giáo Đông phương
Ngày nay, Hội Thánh
Công giáo Đông phương vẫn sử dụng nghi thức chúc bình an thời thánh giáo phụ
Giustinô (thế kỷ II), có nghĩa là nghi thức chúc bình an được đặt sau Phụng vụ Lời Chúa và trước lúc
dâng lễ vật.[17]
Khi đặt sau phần phụng
vụ Lời Chúa, cử chỉ này như một dấu ấn niêm trên việc công bố Tin Mừng, như một
lời cam kết chung, một sự dấn thân tập thể đối với sứ điệp Tin Mừng. Đối với
người Ki-tô hữu, hôn chúc bình an là một biểu hiện tính liên đới sâu xa với sứ
vụ của Đức Ki-tô. Ngoài việc khích lệ nhau sống sứ điệp Tin Mừng như bài giảng
đã vạch ra, biểu hiện này còn là một đảm bảo về tính chân thành của việc cử
hành. Đó là thực
hiện sự hoà giải và bình an huynh đệ nhằm thanh
tẩy hy lễ của mình, theo lời dạy của
Chúa Ki-tô: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có
người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước
bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Trao hôn bình an
được coi là nghi thức bản lề vừa để kết thúc việc nghe Lời Chúa vừa dẫn nhập
vào cử hành Thánh Thể.
Đồng tình với ý nghĩa
trên, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđíctô XVI cũng đã đề nghị các Bộ có thẩm quyền
về Phụng vụ ở Hội Thánh Công giáo Tây phương nghiên cứu khả năng đặt nghi thức
chúc bình an ở vị trí như Hội Thánh Công giáo Đông phương cử hành. Ngài nói:
Xét
đến các thói quen cổ xưa và đáng kính cùng với những ước muốn của các Nghị Phụ
thượng hội đồng, tôi đã đề nghị các Bộ có thẩm quyền nghiên cứu khả năng đặt
việc chúc bình an vào lúc khác, ví dụ trước khi dâng lễ vật lên bàn thờ. Hơn
nữa, việc lựa chọn như thế làm nhớ lại một cách ý nghĩa lời khuyên răn của Chúa
Giê-su về sự hòa giải cần có trước khi dâng lễ vật cho Thiên Chúa (Xc. Mt 5,23tt).[18]
b. Ý nghĩa của
nghi thức chúc bình an ở Giáo hội Công giáo Tây phương
Khác với anh em Hội
Thánh Công giáo Đông phương, Hội Thánh Công giáo Tây phương (từ Công đồng
Vaticanô II) đã lấy lại cách thức chúc bình an từ thời Đức Giáo hoàng Grêgôriô
Cả, nghĩa là nghi thức chúc bình an được đặt sau Kinh Lạy Cha và trước khi Hiệp
lễ.[19] Việc lấy lại nghi thức chúc bình an và
đặt ở vị trí này khiến một số người không thích cho lắm, vì họ nghĩ rằng: ngoài
các cử chỉ và di động phiền toái, lại còn thiếu sự thân mật giữa các tín hữu
đang tham dự Thánh lễ. Một số khác cho rằng nó làm gián đoạn dòng chảy của phần Phụng
vụ! Nhưng thực tế, nghi thức này lại hòa quyện một cách nhịp nhàng vào trong
dòng chảy của Phụng vụ. Quả vậy, hành vi chúc bình an thường được giải thích
trong mối quan hệ của nó với những gì diễn ra trước đó (Kinh Lạy Cha) cũng như
những gì diễn ra sau đó (bẻ bánh và rước lễ).
Sau Kinh Lạy Cha, vị tư
tế đã không chỉ xin Chúa cứu mọi người trong Hội Thánh cho “khỏi mọi sự dữ”,
nhưng còn xin cho mọi người một ơn cao cả hơn hết, đó là ơn bình an. Chữ bình an trong Kinh Thánh và trong Phụng vụ
có một ý nghĩa rộng rãi hơn theo nghĩa thông thường.[20] Cần phải chú ý đến tất cả vẻ phong phú
của từ này, đó là Chúa Cứu Thế chính là Vua bình an, Người đã đem đến sự bình
an toàn diện, vĩnh cửu. Bình an là ơn huệ lớn lao của thời đại Đấng Cứu Thế (Xc.
Is 9,6-7; 32,17-18).
b.1. Bình an bắt nguồn
từ Đức Ki-tô
Theo mô tả của thánh sử
Gio-an: vào đêm trước khi ra đi chịu chết, Đức Ki-tô đã cầu xin cho sự hiệp
nhất (Xc. Ga 17) và trao ban quà tặng bình an cho các môn đệ của Ngài (Xc.
Ga 14,27). Hầu hết những lần hiện ra sau phục sinh, Chúa Ki-tô đều chào chúc
các môn đệ bằng cách trao ban bình an:“Bình an cho các con” (Lc 24,36; Ga 20,19.21.26). Cho nên,
bình an mà các môn đệ nhận được là hoa trái tuyệt hảo của mầu nhiệm Vượt Qua.
Sách lễ Rôma đã lấy lại những ý tưởng trên để đưa vào trong nghi thức chúc bình
an. Thật vậy, Kinh xin ơn bình an và hiệp nhất Hội Thánh mở đầu bằng việc nhắc
lại lời hứa của Chúa Giê-su Ki-tô
với các Tông đồ: “Thầy
để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Căn cứ
vào lời hứa ấy, chủ tế xin Chúa
thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất. Sau khi xin Chúa ban ơn
bình an, chủ tế cầu chúc mọi người có được bình an của Chúa: “Bình an của
Chúa hằng ở cùng anh chị em”; cộng đoàn đáp: “Và ở cùng cha”. Rồi thầy phó tế hay chính chủ tế
mời gọi: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Toàn bộ diễn tiến và nội dung trên khẳng định rằng bình an ở đây là bình
an của Đức Ki-tô, Đấng đã phục sinh và luôn đồng hành cùng Hội Thánh. Chỉ có
bình an của Đức Ki-tô, các tín hữu mới thực sự sống bình an (giao hòa) với
nhau.
b.2. Đây là
một sự hòa giải
Trong Kinh Lạy Cha, tất cả tín hữu khám phá ra mình là con
cái của cùng một Cha và tất cả là anh chị em với nhau. Do đó, khi họ xin Chúa Cha tha nợ cho họ thì họ cũng
phải tha nợ cho nhau; khi họ xin ơn bình an qua lời cầu xin của chủ tế (“Xin
ban cho chúng con những ngày chúng con đang sống được bình an”, “xin
đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an”) thì họ cũng phải sống an bình
(giao hòa) với anh chị em mình. Chỉ cảm nghiệm và nói lên điều đó thôi thì chưa
đủ, mà cần phải được thể hiện cụ thể. Thật
phù hợp và ý nghĩa khi chuyển những tâm tình của lời kinh này sang một hành vi
phụng vụ cụ thể. Cử chỉ chúc và
trao bình an là một trong những dấu hiệu đẹp nhất, qua đó, các tín hữu biểu lộ
rằng họ là con cùng một Cha. Bằng
việc chúc cho người khác được bình an của Chúa Ki-tô, tất cả mọi người trong
cộng đoàn bày tỏ rằng họ đang nỗ lực vượt
qua chính mình để đến và hòa giải
với người khác. Việc này đôi khi
đòi hỏi một sự cố gắng lớn, nghĩa là mỗi người cần ra khỏi “vỏ ốc” cái tôi của
mình, đồng thời, coi người khác như là người mà họ phải tôn trọng và yêu
thương. Để chúc bình an một cách thật sự, trước tiên, người tín hữu cần phải
tha thứ trong lòng, rồi mới biểu lộ dấu chỉ bình an cho anh chị em bên cạnh.
Chính vì vậy, cử chỉ trao ban bình an được coi như việc dọn mình trực tiếp để
xứng đáng chuẩn bị hành vi Phụng vụ tiếp theo.[21]
Quy chế Sách lễ Rôma
cũng liên kết việc trao chúc bình an với các hành vi Phụng vụ theo sau nó (x.
số 82). Đó là phần Hiệp lễ, phần
mà tất cả những người được gọi
mời để trở nên một khi cùng ăn với nhau một bánh.[22] Chính cử chỉ chúc bình an là dấu chỉ
cho sự hiệp nhất này.
b.3. Dấu
chỉ yêu thương và hợp nhất
Trước khi chúc bình an,
chủ tế nài xin Chúa Ki-tô: “ban cho Hội Thánh được… hợp nhất theo thánh ý
Chúa”. Do đó, việc chúc bình an là dấu chỉ hiệp nhất. Việc hiệp nhất này
nhằm hướng tới việc hiệp nhất nơi Hiệp lễ, nơi mọi người chia sẻ Mình và Máu Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu về
khía cạnh này như sau: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia
sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,7). Như vậy, việc chúc
bình an là một cách thức nhắc cho cộng đoàn biết rằng Thánh Thể là bí tích của
sự hiệp nhất. Thật vậy, làm sao người tín hữu có thể đến gần Chúa Ki-tô và nói
rằng họ yêu mến Ngài trong khi lại từ chối hướng lòng và hướng mặt về những
người anh chị em bên cạnh họ?[23] Thánh Gio-an khẳng định: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên
Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không
trông thấy” (1Ga 4,20). Linh
mục Lawrence E. Mick đã giải thích điều này rằng: “Nếu tôi không sẵn lòng để
nhận biết và hiệp nhất với tất cả anh chị em cùng tham dự bữa tiệc này thì làm
sao tôi sẵn sàng đón nhận Mình và Máu Chúa Ki-tô được”.[24] Như vậy, những người anh chị em đang
đứng bên cạnh mình chính là hình ảnh của Thiên Chúa, và cụ thể hơn nữa, là chi
thể của Đức Ki-tô. Nói cách khác, trao chúc bình an cho người khác và đón nhận
việc chúc bình an từ họ là thừa nhận sự hiện diện của Đức Ki-tô ở nơi mình và
nơi anh chị em của mình, bởi vì, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng: “anh em là
thân thể Đức Ki-tô và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12,27). Dấu chỉ bình
an là một phương cách rất phù hợp, qua đó, người tín hữu công khai tôn kính sự
hiện diện của Đức Ki-tô nơi anh chị em trước khi tiến gần đến bàn tiệc Thánh
Thể, là nơi mà họ chân nhận sự hiện diện đích thực của Đức Ki-tô trong hình bánh
và hình rượu. Vì vậy, chúc bình an không phải chỉ là lúc chúng ta hỏi thăm sức
khỏe của nhau cho bằng đó là thời gian chia sẻ sự hiện diện của Đức Ki-tô trong
tâm tình cầu nguyện, là lúc chia sẻ bình an, tình yêu và sự hợp nhất.
Tất nhiên, việc chia sẻ
bình an, tình yêu và sự hợp nhất không được giới hạn và đóng khung trong nhà
thờ, trong Hội Thánh, giữa những người tín hữu với nhau, bởi vì chắc chắn dấu
chỉ này có giá trị to lớn hơn (x. Ga 14,27). Trong thời đại đầy sợ hãi và xung
đột như ngày nay, cử chỉ này càng mang ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Ý nghĩa phổ
quát này được Tông huấn Sacramentum
Caritatis xác định:
Hội
Thánh không ngừng ý thức trách nhiệm của mình là cầu xin ơn bình an và hợp nhất
cho chính mình và cho toàn thể gia đình nhân loại… Hội Thánh trở thành tiếng
nói kêu gọi hòa bình và hòa giải dâng lên từ tâm hồn của mỗi người thiện tâm,
hướng tiếng đó lên Đấng là “bình an của chúng ta” (Ep 2,14) và có thể hoà giải
các dân tộc và con người, ngay cả khi những nỗ lực của con người thất bại. Từ tất
cả những điều này, chúng ta hiểu xúc cảm được nghiệm thấy khi thực hiện dấu chỉ
ban bình an trong buổi cử hành phụng vụ.[25]
3. Thực hành
Quy chế Sách lễ Rôma
(số 154): “Vị tư tế có thể
chúc bình an cho các người giúp lễ, nhưng ngài phải luôn luôn ở trên cung
thánh, để khỏi làm xáo trộn cuộc cử hành. Nếu có lý do chính đáng, ngài cũng có
thể trao bình an cho vài giáo dân, nhưng vẫn ở trên cung thánh”. Điều này cũng được nhắc lại trong
số 72 của Huấn thị Bí tích Cứu độ (SC).
Như vậy, Quy chế và
Huấn thị trên cho thấy rằng phạm vi của vị tư tế khi chúc bình an là “phải
luôn luôn ở trên cung thánh”,[26] với mục đích là để tránh “làm xáo trộn cuộc cử hành”, chứ
không phải tránh làm xáo trộn giữa những người tham dự Thánh lễ. Điều này có
nghĩa là để tránh nguy cơ lôi kéo người ta chú ý đến cá nhân vị tư tế như thể
ngài là tác nhân và là nguồn của bình an; trong khi, Hội Thánh luôn khẳng định
rằng chỉ Đức Ki-tô mới có thể ban bình an đích thực.
Tránh “làm xáo trộn cuộc cử hành” còn được
hiểu rằng nếu vị tư tế đến và trao bình an cho đa số người tham dự, thì đối với
một cộng đoàn lớn, đây sẽ là gánh nặng cho ngài và làm mất nhiều thời giờ. Dành
mất quá nhiều thời giờ cho nghi thức này (vốn chỉ là phần chuẩn bị cho Hiệp lễ)
sẽ lấn áp những phần quan trọng hơn trong Phụng vụ. [27]
Tuy nhiên, một số nhà
phụng vụ cho rằng không nên rập theo một nguyên tắc cụ thể và cứng nhắc, mà tùy
vào từng bối cảnh và không gian phụng tự. Khuynh hướng chung ngày nay là vị tư
tế nên chúc bình an cho một số các thừa tác viên phụng vụ và một số tín hữu
ngồi ở những đầu ghế hay những hàng ghế đầu tiên.
b. Cách
thức chúc bình an
Theo truyền thống, cách
thức chúc bình an ban đầu là kiểu
ôm hôn trong cộng đoàn theo như lời khuyên của thánh Phao-lô (x. 1Cr 16,20). Tự nó, cái hôn đã rất có ý nghĩa,
nhưng vì không phải ở đâu cũng quen cử chỉ ấy, nên có thể sử dụng nhiều cách
chúc bình an khác. Trong vấn đề này, thái độ tinh tế và kính trọng những tập
quán của người khác chính là dấu hiệu chúc bình an tốt nhất.[28] Huấn
thị Bí tích Cứu độ (số 72) nhắc lại Quy
chế Sách lễ Rôma (số 82) rằng:
Mỗi
người nên chúc bình an một cách giản dị và chỉ với những người ở chung quanh
mình... Về những gì liên quan đến dấu hiệu để chúc bình an, cách thức của nó
được Hội đồng Giám mục ấn định, theo tâm tính, phong tục và tập quán của các
dân tộc khác nhau, và được Tông Toà xác nhận.
Và “khi trao bình
an, [mọi người] có thể nói: ‘Bình an của Chúa hằng ở cùng anh’, và được đáp lại
là ‘Amen’” (QCSLRM, số 154).
Ngày nay, cách thức
chúc bình an thông thường ở Việt Nam là các tín hữu hai bên quay vào
giữa nhà thờ và cúi đầu chào nhau. Thực ra, hình thức bắt tay cũng đang được
phổ biến ở một số nhà thờ hay trong một số các tu hội hoặc trong các nhóm nhỏ ở
Việt Nam.
Tất nhiên, đây không phải là sự cứng nhắc, mà có thể có các cử chỉ khác miễn là
chúng phải tao nhã và có
ý nghĩa: mang lại sự ấm áp, thân thiện, tình huynh đệ và sự chấp nhận nhau.
Ngoài ra, tác giả Erasto J. Fernandez (SSS) còn lưu ý
rằng cho dù cách thức chúc bình an có phần nào “lộn xộn” đi chăng nữa, nhưng
nếu nó phá vỡ được bầu khí chia rẽ, thói cô lập, tự coi mình là trung tâm hoặc
ích kỷ về mặt thiêng liêng, thì cộng đoàn vẫn nên dành cho cách thức đó cơ hội,
và thực sự, điều này đáng được làm thế, bởi vì người ta không thể thực sự rước
lễ, nếu vẫn còn cô lập và chia rẽ.[29]
c. Thái độ
cần tránh khi chúc bình an
Thánh Phao-lô dạy rằng
thái độ khi “hôn”chúc bình an là phải “thánh thiện”. Để có được thái độ “thánh
thiện” đó thì cộng đoàn nên tránh một vài thái độ:
- Thứ nhất là chúc bình
an cho chiếu lệ, thờ ơ như một nghi thức vô hồn.
- Thứ hai, là chúc bình
an mà lòng còn đối kỵ nhau.
- Thứ ba là hồ hởi và
sôi nổi quá mức cần thiết.
- Thứ tư là trò chuyện
với nhau.
Đức Bênêđíctô XVI đã nhắc lại lưu ý của Thượng Hội Đồng Giám Mục
rằng cần có thái độ điều tiết khi thực hành cử chỉ này, vì nếu nó bất cập hay
thái quá thì sẽ làm cho mất ý nghĩa hay làm cho bầu khí cộng đoàn loãng đi
trước lúc Hiệp lễ.[30]
Kết luận
Việc trao ban bình an
là một động tác đơn giản, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Nhưng nó mang
lại kết quả và ý nghĩa hết sức sâu rộng. Đó
là một cử chỉ yêu thương, hòa giải và thông hiệp. Cử chỉ này vừa biểu lộ niềm
tin của người tín hữu vào tình yêu Thiên Chúa, vừa nhắc nhở người tín hữu phải
sống yêu thương như Thiên Chúa mà họ tôn thờ bằng việc hòa giải và hiệp thông
với anh chị em mình. Có như vậy, người tín hữu mới thông dự một cách sâu xa vào sự bình
an của Đức Ki-tô, từ đó, họ trao ban bình an này cho người khác. Như thế, chia sẻ với người bên cạnh
một nắm tay, hôn bình an hoặc cúi đầu chúc bình an (tùy theo phong tục của mỗi
dân tộc) không phải là cử chỉ xã giao, lịch sự, mà là dấu chỉ hiệp thông trong
sự bình an và tình yêu thương nhau. Và sự bình an này do Chúa Ki-tô ban tặng (“Bình
an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”). Thật vậy, Chúa Ki-tô đã phán: “Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho
anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Do đó, sự bình an này rộng
lớn hơn những gì con tim chúng ta có thể chứa đựng được, cũng như rộng lớn hơn
những gì bàn tay chúng ta có thể truyền đạt được.[31] Người ta sẽ rất coi thường và bỏ qua
điều này khi họ đến với Thánh lễ mang tính cách cá nhân và quy ngã.[32]
[3] Xc.
Paul Bernier, bản Việt ngữ Thánh
lễ gõ nhịp cho cuộc sống, Trần Đình Long dịch, [không rõ Nxb.], tái bản
2011, tr. 138.
[5] Việc trao hôn bình an
chỉ dành riêng cho những tín hữu, còn những người dự tòng được giải tán. (Xc.
Erasto J. Fernandez,The Eucharist step by step, bản Việt ngữ Thánh lễ từng bước đi vào cuộc sống,
Trần Đình Long dịch, [không rõ Nxb.] - 2012, tr. 155).
[7] Xc. Paul Bernier,Sđd., tr. 138.
[9] Xc. Anscar J. Chupungco, Handbook for Liturgical Studies,
tập III, Claretian Publications - 1997, tr. 119.
[13] Xc. Paul Bernier, Sđd.,
tr. 139.
[14] Xc. Sđd.
[18] Xc. Đức Bênêđictô XVI, Propositio,
số 23 (23/10/2005).
[20] Người
Do Thái dùng chữ Shalom, nghĩa là bình an, để chào nhau.
Tiếng này có ý chỉ tất cả mọi sự thịnh vượng, và có thể dịch là hạnh phúc. (Xc. Trần
Đình Tứ Sđd., tr. 171).
[26] Tại
một số quốc gia, vào những dịp đặc biệt như lễ an táng, lễ cưới, hay khi có nhà
lãnh đạo dân sự hiện diện…, linh mục chủ tế có thể chúc bình cho một vài tín
hữu ở gần cung thánh.
[30] Xc. Đức Bênêđíctô XVI, Tông
huấn Sacramentum Caritatis, số 49.
[32] Xc. Erasto J. Fernandez, Sđd., tr. 159.
No comments:
Post a Comment