Thánh Phaolô,
Tông đồ của mọi người
ERNEST O. HAUSER
Từ một người hăng say bắt đạo Chúa, thậm chí còn tham gia giết chết
Thánh Stêphanô (Phó tế, Tử đạo tiên khởi), đã trở thành người nhiệt thành rao
giảng Chúa-Giêsu-bị-đóng-đinh. Có thể nói rằng nếu không nhờ con người mạnh mẽ,
thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này, thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ
ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.
Từ Giêrusalem
đến Damascô, sau 3 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, một thanh niên
Do thái ở Tarsus tên Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến ấn tượng. Tiếng Chúa
Giêsu gọi: “Saolê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Bị mù vì thị kiến, thanh
niên này phải có người dẫn vào thành phố. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình
phục và trở nên một thụ tạo mới – một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ
sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử
Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên
Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi
truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái
thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có
hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.
Ngoài các thư
chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca –
thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có
nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ,
và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.
Thánh Phaolô
sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ
kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.
Khi còn nhỏ,
Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có
tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem
học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức
Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông
thay đổi. Ông đã bách hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho
đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ
tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri
bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt.
Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ
trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn
thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng
nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định
mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích
Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô
đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy
lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.
Với tài năng
như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người
Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất
đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người
rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt
giai cấp.
Hành trình
tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu
Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở
Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do
thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do
thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã
ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi
Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của
mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề
chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công
giáo và Do thái giáo.
Không hiểu
bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng
Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và
các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong
hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy
nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu
Kitô”.
Ngài vẫn mưu
sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô,
thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở
phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò
chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập
phương: Một cộng đoàn mới.
Nhiều người
ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền
rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau công
nguyên), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ.
Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay,
được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo
đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc
đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm
cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học
giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu
ngọc bảo.
Thư gởi giáo
đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân
sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là
khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong
tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc
sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực
hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng
việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau
biến cố ở Damascus.
“Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên
Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui
nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng
chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài
trực diện.
Nhiệm vụ của
thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Giêrusalem, dù ngài định đi Rôma.
Ngài đến Palestine
với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi
thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa
dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một
binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi
sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh
Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết
thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ
dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương
truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết
án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ
cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước.
Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng
chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.
Đức Giêsu đã
tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem
niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công giáo như ngày nay.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ)
No comments:
Post a Comment