Tuesday, December 17, 2013


TÌM HIỂU để SỐNG ĐẠO
---------------------------------
ĐỨC MẸ có ĐƯỢC CỨU CHUỘC hay KHÔNG?
============================
Hỏi: Xin cha cho biết Mẹ Maria có phải nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô hay không?
Photo: TÌM HIỂU để SỐNG ĐẠO
---------------------------------
ĐỨC MẸ có ĐƯỢC CỨU CHUỘC hay KHÔNG?
============================
Hỏi: xin cha cho biết Mẹ Maria có phải nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô  hay không?

Trả lời:
Mọi người sinh ra trong trần gian này- từ khởi thủy đến nay và còn mãi cho đến ngày mãn thời gian- đều chịu  chung hậu quả của Tội Nguyên Tổ (Origional Sin), nên cần phải được tái sinh qua Phép Rửa để trở thành các tạo vật mới, được gọi Chúa là Cha và có hy vọng sống đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.
Nhưng để bảo đảm hy vọng đó, mọi người đều phải được cứu chuộc nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa đã đến trần gian cách nay trên 2000 năm để hy sinh “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.”(Mt 20: 28)

Thật vậy, chỉ vì thương yêu và “mong muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2: 4) mà Thiên Chúa Cha đã sai Con Một Người là Chúa Giêsu-Kitô xuống trần gian làm Con Người, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần để chuộc tội cho cả loài người đáng bị phạt và chết vì tội lỗi. Khi đến trần gian làm Con Người, Chúa Giêsu đã quên mình là Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần để vui lòng chịu khốn khó và luận phạt như  một tội nhân, đồng số phận với hai tên trộm cướp cùng bị đóng đanh với Người trên Núi Sọ năm xưa. 

Như thế, chính nhờ Chúa Kitô đã chịu chết thay cho mọi người mà chúng ta có hy vọng được sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời mai sau. Công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô được áp dụng cho hết mọi người đã sinh ra trước hay sau khi Chúa hoàn tất công nghiệp cứu chuộc của Người và cho mãi đến ngày hết thời gian.  

Nói khác đi, nếu không có công nghiệp cực trọng của Chúa Giêsu-Kitô thì tuyệt đối không ai có thể được cứu rỗi vì: “Ngoài Người ra ; không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này , không có một danh nào được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ. “(Cv 4: 12). 

Danh đó là Danh thánh Giêsu- Kitô, Đấng đã vui lòng chịu chết để cho chúng ta hy vọng được sống đời đời với Chúa trên Nước Trời, sau khi chấm dứt hành trinh trên trần gian này .

Phải nói có hy vọng thôi, chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ giờ phút hiện tại, không phải vì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô chưa đủ cho con người được cứu độ, mà vì con người còn có ý muốn tự do (free will) để tự ý chọn sống theo Chúa là “Con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14: 6) hay khước từ Chúa để sống theo thế gian dẫn đưa đến hư mất đời đời vì ảnh hưởng rất tai hại của các chủ nghĩa tục hóa (secularism), vô thần (atheism), chủ nghĩa tương đối (relativism) tôn thờ khoái lạc (hedonism) tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất (cult of money and materialism) và không chấp nhận một nguyên tác luân lý và đạo đức nào như bộ mặt của thế giới tục hóa vô luân vô đạo ở khắp nơi trong xã hội loài người ngày nay.
Nếu con người chọn sống theo thế gian với những thực trạng trên đây thì đã hùng hồn chối bỏ Thiên Chúa là tình thương , là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối và trở nên thù nghịch với  thập giá Chúa Kitô, khiến cho công nghiệp cứu chuộc vô giá của Người trở nên vô ích cho những ai tự do chọn lựa cách sống đó.. 

Nghĩa là , dù tin Chúa Kitô và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Người, nhưng nếu không quyết tâm đi theo Chúa để cộng tác với ơn cứu độ của Người bằng nỗ lực xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ bao lâu còn sống trên đời này, thì chắc chắn Chúa không thể cứu ai được, đúng như lời Chúa đã nói với các môn đệ Người xưa kia :
 ”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:Lậy Chúa,! lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa là thực hành tốt những điều Chúa Giêsu đã dạy về mến Chúa, yêu tha nhân, sống công bình, bác ái, và trong sạch , nghĩa là xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ, thì mới xứng đáng được ơn Chúa cứu chuộc  để hưởng phúc Thiên Đàng như lời Người đã hứa:

“Thật vậy, ý của Cha Ta là tất cả những ai thấy người Con
Và tin vào người Con thì được sống muôn đời
Và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6: 40)

Đó là niềm tin và hy vọng cho mọi người đã sinh ra trước hay sau Chúa Kitô và cho đến ngày cánh chung tức ngày mãn thời gian.

Riêng đối với Đức Trinh Nữ Maria, là “Người đầy ơn phúc” được tuyển chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Giêsu-Kitô, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa đã ban riêng cho một mình Mẹ các đặc ân lớn lao là được sinh ra mà không vướng mắc hậu quả của tội  nguyên tổ (Vô nhiễm thai= Immaculate Conception) và mọi tội khác , được trọn đời đồng trinh và hồn xác về trời (Asumption). Như thế, Mẹ Maria đã trỗi vượt hơn mọi thần thánh trên trời và mọi người phàm trong nhân loại nhờ những đặc ơn trên.

Nhưng dù được diễm phúc độc nhất như vậy, Mẹ Maria cũng không cao trọng hơn Thiên Chúa và có chung một bản thể (substance) với Ba Ngôi Thiên Chúa. Mẹ chỉ được tôn kính, tôn sùng (venerate) cách đặc biết ở mức độ Hyperdulia,. trong khi các Thánh Nam nữ khác - kể cả Thánh Giuse- được tôn kính ở mức Dulia và chỉ một mình Thiên Chúa được tôn thờ (adore) ở mức Latria trong phụng vu thánh của Giáo Hội.

Dầu vậy, dù là Mẹ thật của Chúa Giêsu, Đức Mẹ vẫn phải nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô căn cứ vào chính lời Mẹ đã nói trong Bài ca Ngợi khen Thiên Chúa – Magnificat - của Mẹ như sau:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (my Savior) (Lc 1:46-47)
       ………………………………….. 
Thánh Công Đồng Vaticanô II, mượn lời dạy của Thánh Phụ Irêneô, cũng dạy rằng: 
    
”Chính Ngài (Mẹ Maria), nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại.” (x Lumen Gentium số 56)

Như thế đủ cho thấy là Mẹ không được miễn trừ ơn cứu độ của Chúa Kitô và Thiên Chúa đã “ban trước” ơn này cho Mẹ cũng như  cho các người lành thánh khác trong thời Cựu Ước, tức là thời gian Chúa Chúa Cứu Thế Giêsu chưa ra đời và chưa hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. 

Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn có ơn được gọi là “ơn dự phòng: prevenient grace” để ban trước cho Đức Mẹ và cho những người lành thánh khác như các ông Mô-sê , Elia (Mt 17: 3; Mc 9: 4; Lc 9: 30)… đã  hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu trên núi Ta-bo-rê khi Chúa biến đổi dung nhan trước mắt ba môn đê Phêrô, Gioan và Gia-cô-bê

Thánh Phaolô đã giải thích về ơn dự phòng nói trên như sau:
 ”Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm 8: 30)

Tóm lại, tất cả mọi tạo vật được sinh ra trước hay sau Chúa Kitô, đều phải nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô, kể cả Mẹ Maria, Thánh Giuse, các ngôn sứ và các Tổ phụ dân Do Thái là Abraham, Isaac và Jacob (Israel) bởi vì :

“Chỉ có một Thiên Chúa
Chỉ có một Đấng trung gian
Giữa Thiên Chúa và loài người
Đó là một con người, Đức Kitô-Giê su
Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người.” (1 Tm 2:5)

Việc Mẹ Maria lãnh nhận ơn cứu chuộc của Thiên Chúa không làm suy giảm chút nào ơn phúc và tước hiệu của Mẹ là Mẹ thật của Chúa Giêsu, cũng là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) vì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lại nữa, việc Mẹ nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô cũng không hề có nghĩa là Mẹ đồng hình đồng dạng với con người trong phạm trù tội lỗi,  vì Mẹ đã được diễm phúc không hề bị vết nhơ nào của mọi tội lỗi từ khi Mẹ được thụ thai trong lòng mẫu thân cho đến ngày Mẹ được về trời cả hồn xác.

Nhưng Mẹ vẫn nhận công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô không phải vì Mẹ có tội gì để cần được tha thứ mà vì để ca ngợi và cảm tạ tình thương bao la của Thiên Chúa. “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” như Thánh Phaolô đã quả quyết (1 Tm 2:4). 

Chính Mẹ cũng đã góp phần cộng tác quan trọng vào công nghiệp này cùng với Con của Mẹ là Chúa Giêsu-Kitô, trước hết khi Mẹ “xin vâng” với Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Chúa Cứu Thế . Sự xin vâng của Mẹ thật vô cùng quan trọng và cần thiết vì nếu không có,  thì Chúa Giêsu không thể giáng sinh làm Con Người để cứu chuộc cho tất cả loài người, theo chương trình cứu độ của Chúa Cha..Nhưng vì Mẹ “xin vâng” theo thánh ý Chúa cha, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh trong cung lòng vẹn sạch của Mẹ qua quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Không những Mẹ xin vâng mà còn cộng tác mật thiết với .Con của Mẹ trong hành trình thương khó, khổ nạn khi đứng dưới chân thánh giá hiệp thông đau khổ với Chúa Kitô khi Người dâng hy tế đền tội lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ  và cứu rỗi cho toàn thể nhân loại.

Do đó, chúng ta phải muôn đời nhớ ơn Mẹ Maria về sự xin vâng và cộng tác này, vì quả thực Mẹ đã góp phần không nhỏ vào công cuộc mưu tìm hạnh phúc vinh cửu cho tất cả chúng ta cùng với Con của Mẹ là Chúa Cứu Thế Giêsu.

Tóm lại, nếu “sự chết đến vì Evà, thì sự sống đến nhờ Đức Maria” , tân Eva đã vâng phục Thiên Chúa và cộng tác với Chúa Giêsu –Kitô , Đấng  trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người như Kinh Thánh và các Thánh Phụ đã dạy. (x.LG, số 56).        
====================
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn. Trả lời:
Mọi người sinh ra trong trần gian này- từ khởi thủy đến nay và còn mãi cho đến ngày mãn thời gian- đều chịu chung hậu quả của Tội Nguyên Tổ (Origional Sin), nên cần phải được tái sinh qua Phép Rửa để trở thành các tạo vật mới, được gọi Chúa là Cha và có hy vọng sống đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.
Nhưng để bảo đảm hy vọng đó, mọi người đều phải được cứu chuộc nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa đã đến trần gian cách nay trên 2000 năm để hy sinh “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.”(Mt 20: 28)

Thật vậy, chỉ vì thương yêu và “mong muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2: 4) mà Thiên Chúa Cha đã sai Con Một Người là Chúa Giêsu-Kitô xuống trần gian làm Con Người, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần để chuộc tội cho cả loài người đáng bị phạt và chết vì tội lỗi. Khi đến trần gian làm Con Người, Chúa Giêsu đã quên mình là Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần để vui lòng chịu khốn khó và luận phạt như một tội nhân, đồng số phận với hai tên trộm cướp cùng bị đóng đanh với Người trên Núi Sọ năm xưa.

Như thế, chính nhờ Chúa Kitô đã chịu chết thay cho mọi người mà chúng ta có hy vọng được sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời mai sau. Công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô được áp dụng cho hết mọi người đã sinh ra trước hay sau khi Chúa hoàn tất công nghiệp cứu chuộc của Người và cho mãi đến ngày hết thời gian.

Nói khác đi, nếu không có công nghiệp cực trọng của Chúa Giêsu-Kitô thì tuyệt đối không ai có thể được cứu rỗi vì: “Ngoài Người ra ; không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này , không có một danh nào được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ. “(Cv 4: 12).

Danh đó là Danh thánh Giêsu- Kitô, Đấng đã vui lòng chịu chết để cho chúng ta hy vọng được sống đời đời với Chúa trên Nước Trời, sau khi chấm dứt hành trinh trên trần gian này .

Phải nói có hy vọng thôi, chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ giờ phút hiện tại, không phải vì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô chưa đủ cho con người được cứu độ, mà vì con người còn có ý muốn tự do (free will) để tự ý chọn sống theo Chúa là “Con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14: 6) hay khước từ Chúa để sống theo thế gian dẫn đưa đến hư mất đời đời vì ảnh hưởng rất tai hại của các chủ nghĩa tục hóa (secularism), vô thần (atheism), chủ nghĩa tương đối (relativism) tôn thờ khoái lạc (hedonism) tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất (cult of money and materialism) và không chấp nhận một nguyên tác luân lý và đạo đức nào như bộ mặt của thế giới tục hóa vô luân vô đạo ở khắp nơi trong xã hội loài người ngày nay.
 
Nếu con người chọn sống theo thế gian với những thực trạng trên đây thì đã hùng hồn chối bỏ Thiên Chúa là tình thương , là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối và trở nên thù nghịch với thập giá Chúa Kitô, khiến cho công nghiệp cứu chuộc vô giá của Người trở nên vô ích cho những ai tự do chọn lựa cách sống đó..

Nghĩa là , dù tin Chúa Kitô và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Người, nhưng nếu không quyết tâm đi theo Chúa để cộng tác với ơn cứu độ của Người bằng nỗ lực xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ bao lâu còn sống trên đời này, thì chắc chắn Chúa không thể cứu ai được, đúng như lời Chúa đã nói với các môn đệ Người xưa kia: ”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lậy Chúa! lậy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa là thực hành tốt những điều Chúa Giêsu đã dạy về mến Chúa, yêu tha nhân, sống công bình, bác ái, và trong sạch , nghĩa là xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ, thì mới xứng đáng được ơn Chúa cứu chuộc để hưởng phúc Thiên Đàng như lời Người đã hứa:

“Thật vậy, ý của Cha Ta là tất cả những ai thấy người Con
Và tin vào người Con thì được sống muôn đời
Và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6: 40)

Đó là niềm tin và hy vọng cho mọi người đã sinh ra trước hay sau Chúa Kitô và cho đến ngày cánh chung tức ngày mãn thời gian.

Riêng đối với Đức Trinh Nữ Maria, là “Người đầy ơn phúc” được tuyển chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Giêsu-Kitô, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa đã ban riêng cho một mình Mẹ các đặc ân lớn lao là được sinh ra mà không vướng mắc hậu quả của tội nguyên tổ (Vô nhiễm thai= Immaculate Conception) và mọi tội khác , được trọn đời đồng trinh và hồn xác về trời (ASsumption). Như thế, Mẹ Maria đã trỗi vượt hơn mọi thần thánh trên trời và mọi người phàm trong nhân loại nhờ những đặc ơn trên.

Nhưng dù được diễm phúc độc nhất như vậy, Mẹ Maria cũng không cao trọng hơn Thiên Chúa và có chung một bản thể (substance) với Ba Ngôi Thiên Chúa. Mẹ chỉ được tôn kính, tôn sùng (venerate) cách đặc biết ở mức độ Hyperdulia,. trong khi các Thánh Nam nữ khác - kể cả Thánh Giuse - được tôn kính ở mức Dulia và chỉ một mình Thiên Chúa được tôn thờ (adore) ở mức Latria trong phụng vu thánh của Giáo Hội.

Dầu vậy, dù là Mẹ thật của Chúa Giêsu, Đức Mẹ vẫn phải nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô căn cứ vào chính lời Mẹ đã nói trong Bài ca Ngợi khen Thiên Chúa – Magnificat - của Mẹ như sau:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (my Savior) (Lc 1:46-47)
…………………………………..
Thánh Công Đồng Vaticanô II, mượn lời dạy của Thánh Phụ Irêneô, cũng dạy rằng:

”Chính Ngài (Mẹ Maria), nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại.” (x Lumen Gentium số 56)

Như thế đủ cho thấy là Mẹ không được miễn trừ ơn cứu độ của Chúa Kitô và Thiên Chúa đã “ban trước” ơn này cho Mẹ cũng như cho các người lành thánh khác trong thời Cựu Ước, tức là thời gian Chúa Chúa Cứu Thế Giêsu chưa ra đời và chưa hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa.

Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn có ơn được gọi là “ơn dự phòng: prevenient grace” để ban trước cho Đức Mẹ và cho những người lành thánh khác như các ông Mô-sê , Elia (Mt 17: 3; Mc 9: 4; Lc 9: 30)… đã hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu trên núi Ta-bo-rê khi Chúa biến đổi dung nhan trước mắt ba môn đê Phêrô, Gioan và Gia-cô-bê

Thánh Phaolô đã giải thích về ơn dự phòng nói trên như sau:
”Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm 8: 30)

Tóm lại, tất cả mọi tạo vật được sinh ra trước hay sau Chúa Kitô, đều phải nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô, kể cả Mẹ Maria, Thánh Giuse, các ngôn sứ và các Tổ phụ dân Do Thái là Abraham, Isaac và Jacob (Israel) bởi vì:

“Chỉ có một Thiên Chúa
Chỉ có một Đấng trung gian
Giữa Thiên Chúa và loài người
Đó là một con người, Đức Kitô-Giê su
Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người.” (1 Tm 2:5)

Việc Mẹ Maria lãnh nhận ơn cứu chuộc của Thiên Chúa không làm suy giảm chút nào ơn phúc và tước hiệu của Mẹ là Mẹ thật của Chúa Giêsu, cũng là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) vì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lại nữa, việc Mẹ nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô cũng không hề có nghĩa là Mẹ đồng hình đồng dạng với con người trong phạm trù tội lỗi, vì Mẹ đã được diễm phúc không hề bị vết nhơ nào của mọi tội lỗi từ khi Mẹ được thụ thai trong lòng mẫu thân cho đến ngày Mẹ được về trời cả hồn xác.

Nhưng Mẹ vẫn nhận công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô không phải vì Mẹ có tội gì để cần được tha thứ mà vì để ca ngợi và cảm tạ tình thương bao la của Thiên Chúa. “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” như Thánh Phaolô đã quả quyết (1 Tm 2:4).

Chính Mẹ cũng đã góp phần cộng tác quan trọng vào công nghiệp này cùng với Con của Mẹ là Chúa Giêsu-Kitô, trước hết khi Mẹ “xin vâng” với Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Chúa Cứu Thế . Sự xin vâng của Mẹ thật vô cùng quan trọng và cần thiết vì nếu không có, thì Chúa Giêsu không thể giáng sinh làm Con Người để cứu chuộc cho tất cả loài người, theo chương trình cứu độ của Chúa Cha.. Nhưng vì Mẹ “xin vâng” theo thánh ý Chúa cha, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh trong cung lòng vẹn sạch của Mẹ qua quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Không những Mẹ xin vâng mà còn cộng tác mật thiết với .Con của Mẹ trong hành trình thương khó, khổ nạn khi đứng dưới chân thánh giá hiệp thông đau khổ với Chúa Kitô khi Người dâng hy tế đền tội lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ và cứu rỗi cho toàn thể nhân loại.

Do đó, chúng ta phải muôn đời nhớ ơn Mẹ Maria về sự xin vâng và cộng tác này, vì quả thực Mẹ đã góp phần không nhỏ vào công cuộc mưu tìm hạnh phúc vinh cửu cho tất cả chúng ta cùng với Con của Mẹ là Chúa Cứu Thế Giêsu.

Tóm lại, nếu “sự chết đến vì Evà, thì sự sống đến nhờ Đức Maria” , tân Eva đã vâng phục Thiên Chúa và cộng tác với Chúa Giêsu –Kitô , Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người như Kinh Thánh và các Thánh Phụ đã dạy. (x.LG, số 56).
====================
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

No comments:

Post a Comment