ĐỜI TU VÀ HẠNH PHÚC
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Là
con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây..., đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần,
ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ
một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng
đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh
phúc”[1]. Chính vì thế, mà nhiều người chấp nhận
đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người
tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.
Tuy
nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ
tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?
1. Hạnh
phúc là gì và ở đâu?
Thực
sự câu trả lời rất khó để khẳng định đâu là hạnh phúc; ai là người được hạnh
phúc, và dựa vào tiêu chuẩn nào để cho rằng mình hạnh phúc! Lại càng khó hơn
khi mỗi người đều có một quan điểm hay một khái niệm để mặc định cho nó. Đôi
khi dẫn đến tình trạng uốn nắn hạnh phúc theo chủ ý khách quan của mình.
Nhưng
như đã nói, hạnh phúc được mỗi người hiểu một cách khác nhau, nên rất khó thống
nhất. Các trường phái hay tôn giáo cũng có những quan niệm khác nhau khi bàn về
hạnh phúc.
Trong
từ điển tiếng Việt khi nói về hạnh phúc thì viết: “Có được nhiều sung
sướng, toại nguyện”[2]. Còn theo ngôn ngữ triết học thì: “Tình
trạng sung sướng của con người khi khuynh hướng được hoàn toàn thỏa mãn, về
lượng, về phẩm, về lâu dài theo đúng bậc thang (hay là trật tự) giá trị”[3]. Hoặc theo Bách khoa Toàn thư thì: “Hạnh
phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính
trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài
người, nó mang tính nhân bản sâu
sắc và thường chịu tác động của lý trí” [4].
Sự
sung sướng, hay thỏa mãn có thể là cái gì đó nắm bắt được cách cụ thể như: tiền
tài, danh lợi, sức khỏe, sắc đẹp, địa vị, uy thế, quyền lực, thành công, thỏa
mãn ước muốn..., bởi vì người ta phỏng chiếu sự hạnh phúc dưới nhiều lăng kính
chủ quan và có phần hiện sinh, nên đôi khi “thấy vậy mà không phải
vậy”. Tôi theo góc độ và vị thế của tôi; anh theo chủ quan của anh.
Mỗi người sẽ tùy thuộc vào quan điểm, hiểu biết và bậc sống của mình dựa trên
nhu cầu về thể lý hay tâm linh để hình thành nên một quan niệm về hạnh phúc.
Nhưng
nếu chỉ có thế thì quan niệm của con người về hạnh phúc thật lệnh lạc vì nó
không bám rễ sâu trong tâm hồn, nơi nội căn của con người. Hạnh phúc như thế,
thì phải chăng không phải là hạnh phúc thật, bởi vì nó mang nặng tính chủ quan,
phiến diện, nên con người cứ nhọc công tìm kiếm, và lòng tham vô đáy của con
người biết đâu cho vừa, nên cứ phải đi tìm hoài, tìm mãi... Người đời thường có
câu: “Con dao và cái nĩa không làm cho người ta ngon miệng” (De
Sirvy). Còn trong nhà tu thì có ngạn ngữ: “Áo dòng không phải chân tu,
hoa thơm nhân đức đời tu mới thành” hay: “chiếc áo không làm
nên thầy tu”.
Từ
cái nhìn đó, mỗi người chúng ta hiểu được ngay rằng: những thứ bên ngoài thì
không đem lại cho người ta hạnh phúc thật, còn những cái ở bên trong mới đem
lại cho con người hạnh phúc.
Như
vậy, hạnh phúc là một cái gì đó cao quý, thiêng liêng, là vô hằng mà ai cũng
mong muốn đạt được. Nó là một trạng thái nội tâm sâu xa được khởi đi từ nội căn
chứ không phải thứ hạnh phúc bề ngoài do ngoại tại tác động. Còn khi nói đến
hạnh phúc trong đời tu, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói khi gặp gỡ các linh
mục và tu sĩ tại Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm mục vụ năm 2008: “Giáo
Hội không cần có nhiều linh mục, tu sĩ chỉ đề có nhiều, nhưng Giáo Hội cần có
các linh mục, tu sĩ hạnh phúc vì được là linh mục tu sĩ”. Rồi trong
năm Đức Tin vừa qua, Giáo Hội cũng mời gọi con cái của mình: “Tái khám
phá hành trình Đức Tin để làm sáng lên niềm vui, lòng phấn khởi được gặp gỡ Đức
Kitô”. Tiếp theo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã quyết định chọn năm
2014 là năm: “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình”, qua đó các ngài mời
gọi mọi thành phần dân Chúa sống tinh thần “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình để
thông truyền Đức Tin”.
Tất
cả những lời giáo huấn của các đấng chủ chăn trong Giáo Hội luôn mời gọi mỗi
người hãy cảm nghiệm được: “Evangelii Gaudium - Niềm Vui Tin Mừng”. Khi
cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc vì có Chúa ở cùng và sống với, mỗi người
chúng ta mới có thể loan báo và lưu truyền Đức Tin cho thế hệ tương lai.
Tuy
nhiên, thành phần quan trọng trong sứ vụ này không ai khác là chính những người
sống đời thánh hiến. Nhưng trước khi giúp cho người khác khám phá và tái khám
phá niềm vui, hạnh phúc khi đi theo và gắn bó với Đức Kitô, thì chính những
người được thánh hiến phải trở nên dấu chỉ về niềm hy vọng, hạnh phúc và niềm
vui của mình cho người khác.
2. Đời
tu và hạnh phúc
Có
một câu chuyện kể rằng: “Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy
thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của
thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận
được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự
cưỡng bách.
Ngày
nọ, ông vua giàu có đã cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những
đồng tiền bố thí... Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn
xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông được nhiều người giúp đỡ ông và tỏ lòng
thương mến. Tối về, ông tự nghĩ: ‘bây giờ ta mới thực sự là người giàu có nhất
trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ
không do một sự cưỡng bách nào’.
Một
thời gian sau đó, ông gom góp tặng hết những gì mình có cho người nghèo trong
vùng rồi chảy đi nơi khác. Ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên
ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có
phúc hơn là nhận lãnh... Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: ‘Tôi là
người hạnh phúc nhất trên trần gian này’”.
Đời
tu cũng thế, hạnh phúc không phải là ở trong một nhà dòng to lớn có bề dày về
truyền thống, hay có những cơ sở hạ tầng vĩ đại, hoặc một giáo xứ lớn,
những nơi giáo dân luôn tôn trọng, nâng đỡ và tạo điều kiện thuận lợi là hạnh
phúc. Không! Hạnh phúc đời tu không phải như thế! Hạnh phúc trong đời tu chính
là gắn bó với Chúa liên lỉ trong đời sống hằng ngày.
Chỉ
có sự gắn bó với Chúa, được biểu hiện qua đời sống cầu nguyện, chúng ta mới
thấy được hạnh phúc nội tâm và niềm vui chia sẻ.
Sách
Giáo lý Hội Thánh Công giáo nói: “Cầu nguyện Kitô giáo là mối tương
quan giao ước giữa Thiên Chúa và con người trong Đức Kitô” (x. GLHTCG
số 2564).
Như
vậy, nhờ cầu nguyện, chúng ta được đi vào giao ước thánh của lòng ta với Thiên
Chúa. Có cầu nguyện, ta mới khám phá ra hạnh phúc thật và hạnh phúc giả
tạo: “Hãy sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an, anh sẽ tìm
lại được hạnh phúc” (G 22, 21).
3. Sống
thân tình với Thiên Chúa
Khi
chọn đời sống tu trì để hiến dâng cho Thiên Chúa và con người, thì đời tu của
mỗi chúng ta là một cuộc giao ước thánh. Thông qua giao ước này, ta chọn Chúa
làm Chủ đời ta, ta thuộc về Ngài, và Ngài thuộc về ta. Cuộc giao ước này là một
cuộc giao ước tình yêu. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy theo Thầy”và
ta đáp trả, ấy là một cuộc tình được thiết lập, mà Đức Giêsu là người chủ động
đi bước trước.
Đây
là một lời mời gọi mang đầy tình mến mà Đức Giêsu dành cho những ai Ngài chọn.
Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi đó, là chính lúc ta được trở nên đồng hình
đồng dạng với Ngài. Thánh Phaolô đã nói thật thâm sâu: “ Tôi coi tất cả
mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu,
Chúa của tôi …” (Pl 3, 8).
Tông
Huấn về đời sống thánh hiến khẳng định: “Khởi điểm của chương trình này
là sự kiện phải rời bỏ tất cả để theo Đức Kitô” (ĐSTH số 93) và
sống gắn bó với Ngài.
Sự
gắn bó với Đức Kitô được hiểu như là sự sống còn. Chính Ngài cũng đã diễn tả
tâm tình này khi đưa ra hai dụ ngôn người tá điền và anh lái buôn: “Nước Trời
giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền
chôn giấu lại rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm
được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên
ngọc ấy” (Mt 13,44 – 46).
Niềm
vui và hạnh phúc của người môn đệ chính là xác tín thật chắc chắn về vị Thầy mà
mình quyết định đi theo để được ở cùng và sống với Ngài. Vị Thầy đó chính là
kho tàng, là viên ngọc quý. Nói cách khác, Ngài là lẽ sống, là lý tưởng, là
thần tượng của chúng ta. Vì thế, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của
Đức Kitô (x. Rm 8, 38). “Khi được
Ngài, tôi đành mất hết, và
tôi coi tất cả như đồ bỏ, để
được Đức Kitô” (x. Pl 3,7-8). Trong
Tin Mừng, chúng ta cũng thấy có câu chuyện chàng thanh niên giàu có được Đức
Giêsu đem lòng yêu mến, quý trọng và mời gọi anh ta bước đi theo Ngài để được
hạnh phúc: “ Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà
cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo
tôi". (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi,
vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,21-22). Tuy nhiên, anh đã không đáp lại lời
mời gọi ấy và đã buồn rầu bỏ đi chỉ vì anh ta có nhiều của cải. Chúa của anh là
đồng tiền. Chính đồng tiền đã chiếm địa vị độc tôn nơi anh ta.
Trong
thực tế, giới nhà tu của chúng ta cũng vậy. Có rất nhiều người muốn theo Chúa,
hiến thân để sống đời phục vụ... Nhưng oái oăm thay, họ lại không chịu những
điều kiện đi đôi với ước muốn đó. Họ muốn cả hai và luôn trong tình trạng sẵn
sàng “bắt cá hai tay”; hay “tu sĩ hàng hai”. Họ
ngại khó, ngại hy sinh, và khó từ bỏ. Hoặc thay vì đi theo và chọn Chúa, thì
lại chỉ lo làm việc của Chúa! Đến khi không có việc của Chúa hay không ưng ý
với công việc được trao thì sinh ra buồn phiền, chán nản và bỏ đi như chàng
thanh niên giàu có kia.
Chính
vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy rất nhiều người tỏ vẻ bên ngoài thành
công, mũ mão cân đai, họ nói cười oang oang, họ vỗ ngực xưng tên, họ được nhiều
người trọng dụng... Nhưng thực chất, khi đối diện với lương tâm, họ là những
người bi đát, thất vọng vì không có nguồn hạnh phúc thật là chính Chúa, mà chỉ
có những thứ hạnh phúc rẻ tiền mà thôi.
Vậy
muốn có một cuộc đời hạnh phúc thật, thì trước tiên, người sống đời thánh hiến
phải yêu mến và siêng năng đời sống cầu nguyện.
4. Đời
sống cầu nguyện nơi người thánh hiến
Nói
đến nghề đi buôn, người ta nghĩ ngay đến chuyện buôn gì, có lời hay lỗ. Cũng
vậy, khi nói đến đời tu, người ta nghĩ ngay đến đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện
được ví như hơi thở: " Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi
lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,nhưng thể xác lại yếu đuối"
(Mt 26,41). Nếu không cầu nguyện, chúng ta còn có nguy cơ bị cám dỗ và xa dần
Thiên Chúa nữa.
Cầu
nguyện đối với người sống đời thánh hiến được khởi đi từ lúc bình minh đến khi
chiều tà. Từ khi mặt trời ló rạng đến khi khuất núi ban chiều. Mẹ Têrêsa
Calcutta đã cầu nguyện liên lỉ. Cầu nguyện trong mọi cảnh huống
thường ngày. Tuy nhiên, mẹ không phải lúc nào cũng ở trong nhà thờ để cầu
nguyện. Với mẹ, mọi nơi mọi lúc đều có thể cầu nguyện được. Chính vì thế, hễ
những ai gặp được mẹ, từ người quyền cao chức trọng, đến thường dân. Từ người
giàu đến người sống trong khu ổ chuột... ai ai cũng cảm thấy hạnh phúc và vui
mừng khi gặp mẹ. Mẹ không có tiền bạc, không phải là một phụ nữ hấp dẫn, trẻ
trung, không phải là người có địa vị trong xã hội... Nhưng mẹ hấp dẫn là vì mẹ
có tình yêu. Tình yêu của mẹ là tình yêu hướng tha, được khởi đi từ sự cầu
nguyện. Chính trong đời sống cầu nguyện mà mẹ cảm nghiệm thật hạnh phúc, đồng
thời mẹ trao ban niềm vui và hạnh phúc đó cho mọi người.
Trong
đời tu, nhiều khi chúng ta không cảm thấy hạnh phúc ngay trong những chiến
thắng bề ngoài. Tại sao vậy? Thưa chỉ đơn giản là không có cầu nguyện. Hay lời
cầu nguyện của chúng ta bị đóng khung ở bên trong nhà thờ; bị khóa chặt trong
cuốn sách kinh mà không hề ăn nhập gì với cuộc sống cả. Những người như thế, họ
như là “xác không hồn” và không sớm thì muộn, đời tu của họ sẽ
sụp đổ tan tành ngay bởi sự nhàm chán trong công việc phụng vụ, phục vụ và nỗi
cô đơn trong đời tu.
Đức
Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng có nói: “Thứ
nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” (ĐHV
119).
Khi
không có đời sống cầu nguyện trong cuộc đời của người tận hiến, chúng ta làm
mọi chuyện chỉ là việc cưỡng ép, mà nếu làm như vậy, thì có lẽ máy móc tân tiến
ngày nay làm hơn chúng ta nhiều.
Nếu
chúng ta không có đời sống cầu nguyện, thì chúng ta mất đi nguồn sự sống, nguồn
bình an, và như thế, chính bản thân ta đâu có đủ tư cách nói rằng tôi làm việc
này hay việc khác vì Chúa đâu! “Cầu nguyện là nền tảng của đời sống
thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện
sáng nhờ nối liền với máy phát điện (ĐHV 120). Những người không có
đời sống cầu nguyện, thì dù họ có làm được phép lạ cũng đừng tin. Cuộc đời của
họ sẽ sụp đổ nhanh chóng vì họ xây nhà trên cát (x. Lc 6, 49).
Có
rất nhiều anh chị em chúng ta nói: tôi cầu nguyện rất nhiều, tôi dành cho Chúa
rất nhiều thời giờ, nhưng sống với anh chị em trong cộng đoàn thì chẳng ra gì
cả. Người đời thường nói: “Khoảng cách xa nhất trong cuộc sống chính là
từ miệng đến bàn tay”.
Như
vậy, cầu nguyện phải là một trạng thái thanh thoát và bình an. Cầu nguyện không
phải là chuyện làm cho xong để rồi giờ cầu nguyện được ví như giờ lên lớp hay
trả bài. Không phải thế, cầu nguyện là lòng với lòng, ta với Chúa trong tình
Cha - con. Vì thế, đừng lý luận cao siêu, đừng bóp trán nặn óc để thưa lên với
Chúa những lời sáo rỗng từ chương, nhưng thực chất chẳng có gì.
Mặt
khác, cầu nguyện còn giúp cho mỗi chúng ta trở về với lòng mình cách chân thực
để biết mình và biết Chúa. Nhận ra con người yếu đuối của mình, và nhận ra
Thiên Chúa là đáng tuyệt mỹ. Khi nhận ra mình như thế thì điều đầu tiên cần có
là tâm hồn sám hối và sung sướng vì được Chúa thương yêu. Khi họ cầu nguyện, họ
được vì như: “Người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bảo
táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá ” (Mt 7,
24-25).
Những
người sống đời cầu nguyện thâm sâu, thì họ sẽ suy nghĩ, nhìn, nói, hành động
theo ý muốn và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Khi kết hiệp với Chúa, họ không
ngừng sám hối và cũng không ngớt được thúc đẩy mở rộng lòng bao dung, tình
thương đến với người khác. Pierre Van Brieman đã nói: “Cầu nguyện là mở
tâm hồn, mở trái tim và đôi bàn tay trước mặt Thiên Chúa. Tôi còn bám víu vào
nhiều thứ trong đời sống của tôi và quyết nắm chặt lấy chúng trong tay: của cải
vật chất, tinh thần, công việc, địa vị của tôi, bạn bè, nguyên tắc của tôi… Nếu
tôi mở tay ra, những ‘của cải’ trên vẫn còn đó, có lẽ không một vật nào rơi bớt
đi, nhưng ít nhất đôi bàn tay tôi đã mở. Thái độ đó là thái độ của người cầu
nguyện”.
Người
sống đời tận hiến chỉ hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và
sẽ ban cho mình tất cả.
Nói
cho cùng, chúng ta hạnh phúc vì đã mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha
nhân.
Như một lời kết luận, xin mượn câu chuyện của mẹ Têrêsa
Calcutta với một ký giả, khi ông này có buổi tiếp xúc với mẹ.
Câu chuyện được bắt đầu với lời hỏi của anh ta:
Sáng
nay mẹ làm gì?
Cầu
nguyện.
Bắt
đầu từ mấy giờ?
4 giờ
rưỡi.
Và
sau khi cầu nguyện?
-
Chúng tôi tôi tiếp tục cố gắng cầu nguyện qua công việc bằng cách làm những
công việc đó với Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu. Điều này giúp
chúng tôi đặt cả trái tim và tâm hồn mình vào công việc đang làm. Những người
đang hấp hối, những người đang co quắp, những người bệnh tâm thần, những người
bị bỏ rơi, những người không được yêu thương. Họ là Chúa Giêsu cải trang....
Qua
câu chuyện trên, chúng ta thấy đời sống cầu nguyện của chúng ta rất quan trọng.
Khi cầu nguyện, chúng ta tin nhận Thiên Chúa là chủ đời ta cũng như vận mệnh
của đời ta. Chúng ta sẽ làm mọi chuyện vì quy Kitô. Lấy Chúa Kitô làm trung tâm
của ơn gọi và sứ vụ. Lúc đó chúng ta sẽ hạnh phúc vì có Chúa ở cùng chứ không
bị lệ thuộc vào những công việc của Chúa hay những thứ bề ngoài.
[4] Xc.
Bách Khoa Toàn Thư, trên:http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A1nh_ph%C3%BAc,
truy cập ngày 08-02-2014.
No comments:
Post a Comment