Tôn danh Đức Mẹ
Trong các điều về Công giáo, có thể bị
hiểu lầm nhiều nhất là các danh xưng của Đức Mẹ. Đa số người ta cảm thấy rằng
các danh xưng này và các việc sùng kính liên quan đều coi Đức Mẹ quan trọng hơn
Chúa Giêsu. Cân nhắc một chút: Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương các Thiên Thần, Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp, v.v…; người ngoài Công giáo thấy các danh xưng này và các danh
xưng khác là thừa hoặc không cần thiết, như vậy lời than phiền phổ biến nhất là
người Công giáo đã biến Đức Mẹ thành Nữ Thần và do đó mà phạm tội thờ ngẫu
tượng (guilty of idolatry).
Các tước hiệu của Đức
Mẹ có nền tảng Kinh Thánh. Tuy nhiên, anh em Tin Lành đã cắt bỏ 5 thế kỷ trong
Truyền thống các Tông đồ về các truyền thống sùng kính phát xuất từ đức tin, bị
thất lạc nên không thể tìm lại. Khi các nhà cải cách bác bỏ sự hiện diện thật
của Đức Kitô – Mình, Máu, Linh hồn và Thần tính trong Bí tích Thánh Thể, họ
chia thành 4 bản tính riêng biệt mà qua thời gian đã bị tản mác như thực tế
buồn ngày nay của hơn 35.000 nhóm độc lập tự nhận mình là các Giáo hội theo
giáo phái, nhóm cầu nguyện, nhóm thờ phượng, nhóm tôn sùng, v.v…
Quá buồn vì có nhiều người Công giáo không
hiểu các danh xưng của Đức Mẹ. Thật vậy, nhiều người đã xa rời đức tin vì không
hiểu Đức Mẹ trong đời sống của Giáo hội. Trong các tước hiệu của Đức Mẹ, có bốn
Tín điều của Giáo hội: Mẹ Thiên Chúa, Trọn Đời Đồng Trinh, Vô Nhiễm, và Mông
Triệu (lên trời). Các Tín điều này gắn liền với Kitô hữu, nhưng trung thành
cũng phải hiểu rõ, phải học hỏi giáo lý rạch ròi chứ không chỉ ở mức an toàn để
không lệch lạc mà quan trọng hơn là thấu hiểu và yêu mến, có thể chia sẻ với
người khác về vẻ đẹp của chiều kích đức tin về Đức Mẹ.
Chắc chắn mẹ của mọi danh xưng của Đức Mẹ
phải là Tín điều đầu tiên về Đức Mẹ: Theotokos, Người Mang Thiên Chúa hoặc Mẹ
Thiên Chúa. Tín điều này đã được tuyên bố năm 431 khi các giám mục nhóm họp tại
Công đồng Êphêsô để giải quyết tà thuyết Nestorian đã tách rời hai con người
nơi Đức Kitô – một phàm nhân và một thần nhân – ngược với giáo huấn của Giáo
hội về sự kết hiệp thực thể của thần tính và nhân tính (hypostatic union of the
divine and human natures) trong MỘT
CON NGƯỜI của Chúa Giêsu Kitô. Cũng theo tà thuyết này, Đức Mẹ chỉ là
mẹ của Chúa Giêsu phàm nhân, chứ không là mẹ của Chúa Giêsu thần nhân. Khi kết
án tà thuyết này, Tín điều đầu tiên về Đức Mẹ đã được Giáo hội tuyên bố.
Văn bản cổ cho thấy chứng cớ về tính thần
mẫu của Đức Mẹ (Mary’s divine maternity) trong Kinh Thánh. Thánh Elidabet được
Chúa Thánh Thần linh hứng nên đã gọi Cô em Maria là “Mẹ Thiên Chúa” (Lc 1:43).
Từ ngữ Chúa, adonai trong
tiếng Do Thái, là danh xưng dành cho Thiên Chúa. Theo đặc ân đơn giản đó, Đức
Mẹ là mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt. Sau khi giao
phó Đức Mẹ cho Thánh Gioan và giao phó Thánh Gioan cho Đức Mẹ, Chúa Giêsu
kết thúc việc hiến tế của Ngài trên trần gian và nói: “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:30).
Sứ vụ của Chúa Giêsu hoàn tất, Tông Đồ đầu tiên là Đức Mẹ, Kitô hữu đầu tiên và
Khuôn Mẫu của Giáo hội, nhận lấy vai trò Hiền Mẫu tâm linh của Cuộc Sáng Tạo
Mới. Điều này giới thiệu cho chúng ta một danh xưng tất yếu: Đức Mẹ Nữ Vương
(Vương Mẫu hoặc Thái hậu, Queen Mother).
Tại vương quốc Giuđêa, Đức Mẹ Nữ Vương trị
vì cùng Đức Vua. Cả 22 Vương triều Đa-vít đều nói tới trong sách các Vua 1 và 2,
trong sách Biên niên sử 1 và 2, liệt kê cả 22 Thái Hậu. Điều quan trọng này
không mất khi các Giáo phụ thành lập các giáo lý từ những sự thật được Thiên
Chúa mặc khải trong Kinh Thánh và Tông Truyền.
Đó là Vua Solomon, con Vua Đa-vít, người
thiết lập chức Thái Hậu khi ông đặt mẹ Bathsheba trị vì cùng với ông (1 V
2:19). Sau đó, chức gebirah (Thái
Hậu) trở thành nét nổi bật của Vương triều Đa-vít. Thật thú vị, chức năng của
Thái Hậu là can thiệp giúp (cầu thay nguyện giúp) để vua chú ý nhu cầu của nhân
dân. Đức Mẹ là sự hoàn tất Giao Ước Mới (New Covenant) của Thái Hậu trong Vương
triều Đa-vít khi cùng Chúa Con trị vì và cầu thay nguyện giúp cho chúng ta.
Một trong các danh xưng khác của Đức Mẹ là
Đức Trinh Nữ. Từ thời sơ khai, các Kitô hữu đã tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh.
Điều này bị thách thức trong năm 380 vì một giám mục có ý tà thuyết là Giám mục
Helvidius, đã giải thích “anh em” của Chúa Giêsu trong Kinh Thánh là “những đứa
con khác của Đức Mẹ và Đức Thánh Giuse”. Thánh Giêrônimô nói về ý này: “Đó là kỳ quặc, quỷ quái, và dám
lăng mạ đức tin của cả thế giới”. Ngài đã trích dẫn Kinh Thánh và các giáo
huấn của các Giáo phụ Inhaxiô, Polycarip, Irênê, và Justin (tử đạo) để bảo vệ
Tín điều Đức Mẹ Trọn Đời Đồng Trinh.
Các vị cùng thời với Thánh Gieronimo – các
Thánh Ambrosio, Gioan Chrysostom, và Augustino – kể cả các Giáo phụ sau đó cũng
đồng ý với Tín điều này. Tại Công nghị Laterano năm 659, Thánh GH Martin I đã
chính thức tuyên bố Tín điều Đức Mẹ Trọn Đời Đồng Trinh (Dogma of Perpetual
Virginity of Mary): Đức Mẹ vẫn đồng trinh – trước, trong và sau khi sinh Chúa
Giêsu (ante partum, in partu, et post partum).
Sự đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ được các
Giáo phụ Thời cải cách (Fathers of the Reformation) tán thành: Luther, Zwingli
và Calvin cương quyết bảo vệ sự đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ, nhưng không may
đã thất lạc các chi tiết của Thời cải cách. Nhưng thật thú vị, những người theo
Mohammad cũng tin giáo lý này, có một đoạn trong kinh Koran: “Bà vẫn
còn đồng trinh… Chúng ta đã hít thở Thần Khí trên Bà. Chúng ta làm cho Bà và
Con của Bà trở nên Dấu hiệu của thế giới” (Sura 66 v. 12). Hồi
giáo gọi Đức Mẹ là Maryam (Maria) và coi Đức Mẹ là phụ nữ vĩ đại nhất trong các
phụ nữ; vài câu trong kinh Koran chứng thực điều này. Trên giường bệnh,
Mohammad đã nói với con gái Fatima của ông
rằng cuối đời của cô khi cô vào Thiên Đàng, chỉ có một phụ nữ lớn hơn cô là
Sayida (danh xưng của Hồi giáo dành cho Đức Mẹ).
Chúng ta thường xưng tụng Đức Maria là Đức
Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Hòa Bình và Đức Mẹ Thượng Lộ Bình An, Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng
Lành (Good Counsel). Trong các Giáo hội Latin và Đông phương, trong mọi nền văn
hóa mọi thời và mọi miền, Mẹ Thiên Chúa được gọi là Đức Mẹ, Nữ Vương, Trinh Nữ,
hoặc Đức Mẹ của địa hạt của họ – ví dụ: Đức Mẹ Việt Nam, Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ
Tà Pao, Đức Mẹ Campuchia, Đức Mẹ Thái Lan, Đức Mẹ Hoa Kỳ,…
Có ba kinh cầu dành cho Đức Mẹ. Được biết
nhiều nhất là Kinh cầu Đức Trinh Nữ, được ĐGH Sixtô V phê chuẩn năm 1557, gồm
bảy danh xưng và tước hiệu trong các lời cầu. Đôi khi được gọi là Kinh cầu Loreto,
nơi được đọc lần đầu vào năm 1558. Một số lời cầu có trước thời đó, từ khoảng
thế kỷ XI.
Sự hạn chế không gian khiến chúng ta không
thể nghiên cứu về mỗi danh xưng và mỗi tước hiệu. Dựa trên Kinh Thánh cũng đủ –
trong Cựu ước và các mối quan hệ đặc biệt với Một Chúa Ba Ngôi (One Triune
God).
Đức Mẹ là Ái Nữ của Chúa Cha, là Tân Nương
của Chúa Thánh Thần, là Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế, là Hiền Mẫu của chúng ta và
là người khuyên: “Hễ Người bảo
gì thì cứ việc làm theo” (Ga 2:5).
------------------
ED DE VERA
Trầm Thiên Thu
chuyển ngữ từ
all-about-the-virgin-mary.com
No comments:
Post a Comment