GIÁO HOÀNG - GIÁO CHỦ- GIÁO TÔNG?
Sau năm 1975, trên báo
chí, thấy xuất hiện một số cách gọi vị đứng đầu Giáo Hội hoàn vũ là Giáo Chủ hay Đức Giáo Chủ, mà không
gọi như trước là Đức Giáo Hoàng hay Đức Giáo Tông. Về phía Giáo Hội thì cũng
chỉ xưng Đức Thánh Cha. Chúng ta thử tìm hiểu xem cách gọi nào tốt hơn.
1. Các danh xưng của vị thủ lãnh tối cao của Giáo Hội hoàn vũ (Caput Universalis Ecclesiae, Supreme leader of the Church).
Theo thứ tự được ghi trong Niên Giám Giáo
Hoàng 2007 như sau:
(1). Giám mục Rôma (Episcopus Romanus,
Bishop of Rome).
(2). Vị Đại diện Chúa Kitô (Vicarius
Christi, Vicar of Christ).
(3). Đấng kế vị Thánh Phêrô, Thủ lãnh các
tông đồ (Successor principis apostolorum, Successor of the Prince of the
Apostles).
(4). Thượng Giáo Chủ của toàn thể Giáo
Hội (Summus Pontifex Ecclesiae Universalis, Supreme Pontiff of the Universal
Church) hay vắn tắt là Thượng Giáo Chủ (Đại Trưởng Tế, Đức Giáo Hoàng )
(Pontifex Maximus, Maximus Pontiff ).
(5). Giáo Trưởng nước Ý (Primas Italiae, Primate
of Italy).
(6). Tổng giám mục và tổng giáo chủ (Đại
giám mục) Giáo tỉnh Rôma (Archiepiscopus et metropolitanus provinciae
ecclesiasticae Romanae, Archbishop and Metropolitan, từ hai chữ meter: “mẹ” và
polis: “thành phố” of the Roman
Province ).
(7). Quốc vương nước Vatican (Princeps sui iuris civitatis Vaticanae,
Sovereign of the State of the Vatican
City ).
(8). Tôi tớ các tôi tớ của Thiên Chúa
(Servus Servorum Dei, Servant of the Servants of God).
Ngoài ra, Giáo Luật (x. Can 331) còn ghi
những danh xưng như:
(9). Đức Giáo Hoàng Rôma (Romanus
Pontifex, The Roman Pontiff).
(10). Thủ lãnh của Giám Mục đoàn (Caput
collegii, Head of the college
of Bishops ).
(11). Chủ chăn của toàn thể Giáo Hội trên
trần gian (Universae Ecclesiae his in terris Pastor, Pastor of the universal
Church on earth).
Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã bỏ danh
xưng Thượng phụ Giáo Chủ Tây Phương (Patriarcha Occidentis, Patriarch of the
West) ra khỏi Niên Giám Giáo Hoàng từ năm 2006.
2. Hai danh xưng thường được sử dụng là Papa và Maximus Pontifex.
2.1 Papa (Pope, do bởi chữ Hy Lạp pappas nghĩa là “cha”), tiếng thân mật của con cái gọi cha mình hay của người vợ gọi người chồng. Ban đầu papa cũng được dùng để gọi các vị tư tế. Từ thế kỷ III (kh. 250), dùng để gọi các vị giám mục ở Tiểu Á và
Trong tiếng Việt, Papa ngày xưa
dịch là “đức thánh baba”, sau này dịch là đức thánh cha. Danh xưng này
không có trong các bảng liệt kê chính thức, nhưng lại được sử dụng nhiều nhất,
thường xuất hiện dưới dạng viết tắt là “PP” (viết tắt của chữ “Papa”)
sau danh hiệu hoặc chữ ký của các vị giáo hoàng trong các văn kiện mang dấu ấn
của các ngài. Ví dụ: “Benedictus PP. XVI”.
2.2 Maximus Pontifex (Pontiff Maximus)
Maximus nghĩa đen là vĩ đại; pontifex
(Lt. pons = cây cầu + facere = làm, xây dựng), nghĩa đen là người thiết lập
chiếc cầu.
Trong thời đế quốc Rôma ngoại giáo, từ này chỉ tước hiệu của tư
tế, sau đó là tước hiệu của nhà vua. Kể từ thế kỷ V, tước hiệu này dành cho các
vị giám mục, nhưng trong truyền thống Kitô Giáo thường dùng để chỉ Đức Giáo
Hoàng.
Hoàng đế Augustus trong trang phục của
vị “Pontifex Maximus”
3. Ý nghĩa của các từ giáo, hoàng,
tông, chủ
3.1. Giáo, có những chữ Hán này: 教, 校, 挍, 窖, 覺, 較, 酵, 餃. Ở đây là chữ 教, có nghĩa: (dt.) (1) Người làm nghề dạy học: Cô giáo. (2) Hệ thống các giáo lý giảng về quan hệ giữa người và Đấng Tạo Hoá: Tôn giáo. (3) Kitô Giáo: Đoàn kết lương giáo. (đt.) (4) Dạy cách thức: Hỗ giáo hỗ học (dạy lẫn nhau và học lẫn nhau). (5) Bảo: Thỉnh giáo.
Nghĩa Nôm: (dt.) (1) Khí giới thời xưa nhọn cán dài: Giáo mác. (2) Hệ thống các thanh vật liệu bắc lên cao: Thợ nề trên tầng giáo. (đt.) (3) Quấy cho nhuyễn, cho đặc lại: Giáo bột làm bánh. (4) Hát giới thiệu trò diễn sắp trình bày: Câu giáo trò. (5) Nói gần nói xa về việc định làm: Có gì cứ nói, làm gì phải giáo trước.
3.2. Hoàng, có những chữ Hán này: 皇, 黃, 簧, 潢, 磺, 蟥, 癀, 鱑, 凰, 偟, 徨, 篁, 喤, 蝗, 煌, 惶, 隍, 遑, 鰉, 鍠. Trong thuật từ giáo hoàng là chữ 皇.
Chữ皇thay đổi nhiều theo thời gian, không đơn thuần như người ta
lầm tưởng là bộ 白
(bạch) và chữ 王
(vương). Theo cuốn “Tìm Về Cội Nguồn Chữ Hán” của Lý Lạc Nghị: Hoàng là chữ gốc
của 煌 (hoàng, như huy
hoàng). Phần dưới chữ vốn là chân đèn; ba nét sổ phía trên là ánh đèn sáng.
Đến Tiểu triện thì phần trên viết nhầm thành自(tự), đến Lệ thư lại biến thành白(bạch).
Còn theo cuốn Quốc Ngữ Hoạt Dụng Từ
Điển thì chữ hoàng tuy bộ白 (bạch), nhưng kết cấu thì thuộc “hội ý”. trên mặt trời toả
ánh sáng chói lọi, mặt trời mọc lên khỏi mặt đất thì sáng rực, diễn nghĩa cho
chữ 白(bạch), phần
trên của chữ 皇
(Hoàng). Có các nghĩa sau: (dt.) (1) Họ Hoàng. (2) Vua: Hoàng
đế. (2) Trời: Hoàng thiên. (3) Đạo Giáo (của Lão Tử) tôn vị thần
chính yếu của họ là Hoàng (4) Thời kỳ quân chủ gọi cha của hoàng đế là hoàng: Thái
thượng hoàng (Thái thượng có nghĩa là rất tôn kính, vì không can dự quốc sự
nên không xưng là đế). (5) Người con tôn kính người cha đã qua đời cũng gọi là
hoàng: Hoàng khảo. (đt.) (6) Cứu giúp vua. (7) Mở rộng. (tt.)
(8) Lớn, vĩ đại. (9) Trang nghiêm. (10) Rực rỡ. (11) Mỹ thiện. (12) Quang minh.
Hoàng và vương đều có nghĩa là “vua” và “vĩ đại”, nhưng có
khác biệt, theo thói quen thì nói hoàng thiên mà không nói vương
thiên, dùng quốc vương mà không dùng quốc hoàng.
3.3. Tông, có nhiều chữ Hán: 宗, 椶, 朡, 柡, 淙, 鬃, 騌, 鬉, 騣. Trong trường hợp này là chữ 宗. Chữ này theo phiên thiết là 作 (tác) 東 (đông), lấy phụ âm “T” của chữ “tác” nối với vần “ông” của chữ “đông”, nên phải đọc là tông. Chữ này trước triều Nguyễn vẫn đọc là tông, sau vì kiêng tên huý vua Thiệu Trị mới đọc là tôn, như vậy thuật từ nào có liên quan đến chữ này đều đọc là tôn, như: tôn giáo, nhưng lại nói tông đường. Tông hay tôn có những nghĩa sau đây: (dt.) (1) Họ Tông. (2) Dòng họ: Đồng tông. (3) Tổ tiên: Liệt tông. (4) Người được mọi người noi theo: Nhất đại thi tông (nhà thơ giỏi nhất đương thời). (5) Trưởng tử. (6) Nhóm theo cùng một thuyết: Chính tông; Tông giáo (chủ thuyết dạy lối phải tin tưởng và hành động: religion). (7) Danh hiệu của vua. (đt.) (8) Kính trọng. (9) Căn bản. (10) Miếu thờ tổ tiên. (11) Từ giúp đếm: Sự, món, vu (lượng từ), “điều”: Nhất tông tâm sự. (12) Tôn sùng. (tt.) (13) Cùng họ với nhau. (14) Chủ yếu: Tôn chỉ.
Nghĩa Nôm: Giống nòi qua các thế hệ: Con nhà
tông: không giống lông cũng giống cánh; Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống;
Thài lài mọc cạnh bờ sông, tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài lài; Yêu ai yêu cả
đường đi; ghét ai ghét cả tông chi họ hàng.
3.4. Chủ, có mấy chữ Hán: 主, 拄, 麈, 宔, 踽, 偊, 劚. Ở đây là chữ 主, là chữ gốc của 炷 (chú: bấc đèn). Giáp cốt văn nói là hình
một bó đuốc. Thời cổ xưa, ngọn lửa là rất quý, thường do tộc trưởng bảo quản,
vì thế cũng dùng để chỉ người thủ lãnh. Sau đó nghĩa mở rộng thành quân chủ,
chủ nhân, chủ trì…
主(chủ) có nghĩa: (dt.) (1)
Lửa trong đèn. (2) Người đương sự. (3) Chủ trương. (4) Căn bản. (5) Tín đồ tôn
giáo xưng vị thần của họ. (6) Bài vị của kẻ chết. (7) Chủ yếu. (8) Người chủ: Chủ
nhân. (9) Người có quyền. (10) Người có quyền sở hữu: Địa chủ. (11)
Vua chúa: Quân chủ. (12) Người bị hại: Khổ chủ. (đt.)
(13) Chủ trương. (14) Chịu trách nhiệm chính: Chủ nhiệm. (15) Thống trị.
(tt.) (16) Quan trọng nhất: Chủ lực. (17) Thuộc về mình: Chủ
quan.
4. Nghĩa các thuật từ giáo hoàng, giáo
tông, giáo chủ
4.1. Giáo hoàng (教皇): Giáo là tôn giáo; hoàng là vua.
Có người giải thích chữ “hoàng” nghĩa là
“lớn”, chúng ta nên hiểu hoàng trong thuật từ này hoàn toàn không có
nghĩa là lớn gì cả, vì khi hoàng là tĩnh từ mới có nghĩa là lớn,
trong thuật từ giáo hoàng thì hoàng không phải là tĩnh từ.
Theo từ ngữ, chỉ có thể giải nghĩa giáo
hoàng là vị vua của đạo mà thôi. Tuy nhiên, khi chúng ta xưng vị
lãnh đạo của Giáo Hội là vua thì không thích hợp cho lắm. Chúng ta không
phủ nhận có vị vua rất tốt, như vua của Thái Lan rất được dân chúng kính trọng.
Nhưng khi chúng ta xưng vị lãnh đạo của tôn giáo của chúng ta là giáo hoàng,
thì có vẻ còn mang nặng tư tưởng phong kiến và chính trị.
4.2. Giáo tông (教宗): Nghĩa là người đứng đầu Giáo Hội.
Ngoài ra, tất cả những gì thuộc về giáo
tông đều mang chữ tông và có cùng một hệ thống với những từ như:
Tông thư, Tông huấn, Tông sắc, Tông Toà..., nhưng không thể nói Hoàng thư,
Hoàng huấn, Hoàng sắc, Hoàng Toà... được. Tuy người ta cũng gọi các uỷ ban của
Toà Thánh là uỷ ban giáo hoàng, như Uỷ ban Giáo Hoàng về Di sản Văn hóa của
Giáo Hội, Uỷ ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh..., nhưng những thuật từ này chúng ta
có thể thay thế bằng thuật từ giáo tông một cách dễ dàng, như: Uỷ ban Giáo Tông
về Thánh Kinh...
4.3. Giáo chủ (教主): Nếu phân tích từng chữ có nhiều nghĩa, nhưng thuật từ giáo chủ có nghĩa là “người sở hữu tôn giáo đó”, tức là: người sáng lập một tôn giáo, ví dụ: Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ của đạo Phật.
Trong tiếng Việt, thấy có người dịch một
số từ liên quan đến từ “giáo chủ” như:
- Maximus Pontifex: đức giáo chủ;
- Patriarch: thượng phụ giáo chủ;
- Metropolitan: trưởng giáo chủ;
- Primate (Giám mục hàng đầu, thứ nhất):
giáo chủ;
- Cardinal: thường dịch là hồng y, nhưng
có khi cũng dịch là hồng y giáo chủ...!
Như vậy, từ “giáo chủ” được gán hoặc ghép
cho các tước hiệu vừa kể có thực chính xác không?
5. Nhận xét
Có một điều rất lạ, trong khi người Hoa
Công Giáo trên toàn thế giới đều xưng vị lãnh đạo của chúng ta là giáo tông,
thì chính quyền Trung Quốc lại gọi là giáo hoàng. Trong khi nhóm “yêu
nước” thì xưng là giáo tông, còn Giáo Hội “thầm lặng” cũng chia thành
hai nhóm, các giáo sĩ thì xưng là giáo tông, còn giáo dân lại gọi là giáo
hoàng. Chính quyền Trung Quốc gọi giáo hoàng với ý mỉa mai, xem ngài
như di sản của chế độ phong kiến và vua của nước Vatican . Còn giáo dân của Giáo Hội
“trầm lặng” thì tôn ngài như vị lãnh đạo đáng kính giống như vị vua thời xưa.
Những cảm nghĩ này đều có tính chủ quan.
Giáo Hội tại Việt Nam từ xưa đã dùng thuật từ giáo
hoàng, sau dùng giáo tông, nhưng không hiểu vì lý do gì mà không
dùng giáo tông nữa mà trở lại dùng giáo hoàng. Sau này, có một số người
dùng từ giáo chủ.
Lời kết
Tuy thuật từ giáo hoàng đã được sử
dụng phổ biến như thế thì khó mà thay đổi. Nhưng xét về mặt từ ngữ thì không
thích hợp cho lắm. Tất cả những danh xưng dành cho vị lãnh đạo của Giáo Hội
trong tiếng La Tinh hay Hippri đều không có từ nào ám chỉ ngài là vị hoàng đế
cả.
Chúng ta cần suy nghĩ có nên dùng thuật
từ Giáo Tông? Vì thuật từ giáo tông ngoài nghĩa người đứng đầu,
còn mang tính cách tông truyền nữa, cho nên thuật từ giáo tông
thích hợp với vai trò vị lãnh đạo của Giáo Hội hơn cả.
------------------------------------
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
No comments:
Post a Comment