Ngày
13/5 vừa qua, Toà Ân giải Tối cao đã công bố tài liệu liên quan đến
cách thức và việc thực hành, tại các nơi thánh ở Roma và trên thế giới,
để lãnh nhận Ân xá trong Năm Thánh thông thường 2025. Trong một bài viết
đăng trên báo L'Osservatore Romano - Quan sát viên Roma, tác giả
Federico Corrubolo đã trình bày về sự tiến triển của tiến trình sám hối
trong Giáo hội, từ thời đầu của việc xưng tội vào thời Luther cho đến
huấn quyền hiện tại của Giáo hội...
Để
hiểu đầy đủ ý nghĩa của ân xá, chúng ta cần lùi lại một bước. Trong
Giáo Hội cổ xưa, các tín hữu không xưng tội như chúng ta ngày nay. Việc
tha tội là một “sự kiện xã hội”: các tín hữu tuyên bố mình là tội nhân
(không đi sâu vào chi tiết, điều không có ích gì nhiều), họ gia nhập một
nhóm (một “cộng đồng phục hồi” thực sự), và họ thực hành một tiến trình
sám hối có thể kéo dài vài tháng, thậm chí nhiều năm tùy theo mức độ
nghiêm trọng của tội lỗi. Vì vậy, đầu tiên họ
thực hành việc sám hối và chỉ khi kết thúc (thường là vào sáng Thứ Năm
Tuần Thánh), họ mới đến trình diện với vị giám mục. Ngài sẽ đặt tay và
ban phép xá tội. Do đó, trình tự là: trước tiên là xưng tội, sau đó là
sám hối và cuối cùng là xá giải.
Tuy
nhiên, đó là một công việc lâu dài, đòi hỏi nhiều thời gian và phải hy
sinh nhiều. Đó là hành trình các tín hữu có thể thực hiện một vài lần
trong đời và nó liên quan đến những tội trọng (trộm cắp, giết người,
v.v.): trước khi bắt đầu, họ phải suy nghĩ kỹ về nó, và họ thường thực
hiện việc này khi về già (khi ngay cả khả năng tội lỗi giảm đi).
Vào
thời Trung cổ, đời sống Kitô giáo vẫn tiếp tục trong các đan viện, và
tình hình ở đó rất khác. Sống trong những cộng đoàn nhỏ biệt lập, các
tín hữu thường hay phạm những tội nhẹ, và họ không thể thực hành sám hối
hàng tháng, hàng năm vì mỗi lỗi nhỏ... hơn nữa, họ rất hiếm khi gặp các
giám mục.
Từ
đó thói quen xưng tội với vị viện phụ của đan viện bắt đầu phổ biến.
Sau khi họ xưng tội, ngài lập tức ban phép xá giải và sau đó ấn định
việc đền tội, như chúng ta vẫn làm cho đến ngày nay.
Trong hệ thống mới này, sự khác biệt nảy sinh giữa tội lỗi (được loại bỏ bằng việc xưng tội) và hình phạt (phải
thực hiện sau khi nhận được sự tha thứ để đền bù tội lỗi). Vì hệ thống
cổ xưa chưa bị bãi bỏ nên thời gian sám hối luôn được tính bằng ngày,
tháng và năm. Trong các đan viện thậm chí còn tồn tại những “mức độ” đặc
biệt (sách sám hối) quy định thời gian sám hối cho hầu hết mọi tội lỗi
có thể xảy ra.
Tuy
nhiên, trong những dịp đặc biệt (những ngày lễ quan trọng, những sự
kiện đặc biệt), một người sám hối tốt có thể được “giảm án”. Làm thêm
vài việc lành có thể giảm bớt một số ngày, tháng, năm sám hối. “Ưu đãi
đặc biệt” này được gọi là ân xá và thường rất thuận tiện; do đó, các Kitô hữu tốt lành đã không để mất dịp lãnh ân xá.
Nhân dịp thực hiện một sứ mệnh bất khả thi,
tức là cuộc tái chiếm Giêrusalem đã bị người Ả Rập xâm chiếm, vào năm
1096, Đức Giáo hoàng Urbano II, đã xem xét rủi ro rất cao của sứ mệnh
này, đã lần đầu tiên đưa ra một đề nghị chưa từng thấy trước đây: tha
thứ hoàn toàn việc đền tội cho người lên đường giải phóng Thành Thánh.
Đây là ơn toàn xá đầu
tiên. Kể từ đó, ngày càng thường xuyên hơn, Đức Giáo hoàng, với tư cách
là Đại diện của Chúa Kitô và là người kế vị Thánh Phêrô, đã sử dụng
“quyền nắm giữ chìa khóa” nhận được từ Chúa Giêsu để mở kho tàng ân xá,
dùng giá trị vô tận của ơn cứu chuộc trực tiếp thay thế cho ngày, tháng
và năm của sự đền tội cổ xưa.
Con
người thời trung cổ có mối quan hệ trực tiếp và trực quan với Thiên
Chúa: họ tin vào lòng thương xót của Người, nhưng sợ công lý, bởi vì họ
nghĩ về mối quan hệ với Người theo cách “thời trung cổ”, tức là như một
hiệp ước phong kiến giữa thần dân và nhà vua. Họ đã đặt mình vào tay
Người theo đúng nghĩa đen (động tác cầu nguyện “chắp tay” xuất phát từ
các nghi lễ phong kiến) và hứa tuân theo luật pháp của Người; đổi lại họ
nhận được sự bảo vệ, sự giúp đỡ và bảo vệ chống lại âm mưu của ma quỷ.
Việc
vi phạm luật pháp của Thiên Chúa được coi là một hành vi xúc phạm rất
nghiêm trọng đối với nhà vua; ngài tước bỏ sự bảo vệ và điều này khiến
kẻ vi phạm phải chịu sự trừng phạt. Do đó, người ta lo lắng quay trở lại
“với ân sủng của Chúa”, ký kết một hiệp ước phong kiến mới và do đó
“cài đặt lại phần mềm chống vi-rút” chống lại ma quỷ.
Khi
Đức Bônifaciô VIII công bố Năm Thánh đầu tiên vào năm 1300 và hứa ban
ơn toàn xá cho tất cả chỉ bằng việc thực hiện ba mươi ngày cầu nguyện ở
Roma, thành phố đã bị một đạo quân hành hương xâm chiếm. Kể từ đó “ân
xá” và “Năm Thánh” đã là một sự kết hợp thành công...
**
Trong những thế kỷ tiếp theo, nỗi lo lắng về ơn cứu độ không hề nguôi
ngoai và điều này đã dẫn đến việc đào sâu thêm học thuyết đã được biết
đến, đó là một việc làm tốt có thể rút ngắn thời gian sám hối. Nhân danh
sự hiệp thông của các thánh, nghĩa là mối liên kết hiệp nhất tất cả
những người đã được rửa tội trong Nhiệm Thể duy nhất của Chúa Kitô,
người ta suy luận rằng việc giảm hình phạt có thể được áp dụng cho tất
cả các Kitô hữu, cả người sống và người đã qua đời.
Sự khao khát được hưởng ân xá vẫn còn tồn tại trong nhiều thế kỷ khác trong cộng đồng Kitô hữu.
Cùng
với việc thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp điển hình của thời Trung cổ
và bước vào nền kinh tế tiền tệ điển hình của thời hiện đại, các ân xá
cũng đã xâm nhập vào thị trường.
Sự
giàu có của thời Trung cổ được ban tặng bởi đất đai đảm bảo nguồn sống
và do đó có quyền tự chủ; sự giàu có của thời hiện đại là tiền, thứ cho
phép bạn mua trên thị trường những gì trước đây thu được từ đất đai.
Trong xã hội dân sự, người ta bắt đầu buôn bán các chức vụ công quyền,
các chức tước cao quý, các quan chức... Trong Giáo hội, người ta mua bán
các chức hồng y, đan viện, giáo phận. Những thương gia giàu nhất cũng
dâng tiền cho các vị vua, hoàng đế, giáo hoàng, giám mục.
Một
giám mục người Đức 26 tuổi đã mắc nợ một ngân hàng lớn để mua một giáo
phận lớn. Ngài dùng nhiều tiền hơn những gì ngài có thể và để thoát khỏi
nợ nần, ngài phải huy động tiền mặt nhanh chóng. Vì lý do tương tự,
Giáo hoàng cũng cần tiền: ngài phải tiếp tục xây dựng Đền thờ Thánh
Phêrô. Cả hai đều sử dụng cùng một hệ thống: một chiến dịch rao giảng để
nhận được ơn toàn xá. Việc tốt bây giờ cần làm không còn là tái chiếm
Giêrusalem nữa, nhưng chỉ là dâng cúng một khoản tiền. Sự lo lắng về ơn
cứu độ luôn rất cao, chỉ lúc này nó đi vào logic thị trường một cách tàn
nhẫn, bằng những khẩu hiệu quảng cáo: Wenn die Münze klingt, die Seele
springt! (“Khi đồng xu reo, linh hồn nhảy lên vào Thiên đường”).
Đức
Giám mục thuyết giảng về ơn toàn xá của Đức Giáo hoàng trong giáo phận
của mình và giữ một phần số tiền dâng cúng cho mình. Doanh thu cao, được
ưa chuộng bởi sự mơ hồ của đề xuất (ngày nay chúng ta gọi đó là “quảng
cáo gây hiểu lầm”), nhưng đến một thời điểm nhất định, trò chơi bị đình
trệ.
Một
tu sĩ trẻ dòng Augustinô, giáo sư Thánh Kinh tên là Martin Luther nói
về tệ nạn: nếu không có sự hoán cải tâm hồn thì việc mua giấy chứng nhận
của giáo hoàng chỉ là vô ích.
Con
người đã thay đổi, và mối quan hệ của họ với Thiên Chúa cũng thay đổi:
con người hiện đại không còn là chủ thể của một hiệp ước phong kiến nữa,
mà là một cá nhân với lương tâm day dứt, đang tìm kiếm sự thật, không
chấp nhận mọi điều huyền bí. Họ muốn có một mối quan hệ chân thành và tự
do với Chúa, không phải lo lắng về việc thanh toán hóa đơn. Khi Luther
mời các bạn của mình thảo luận về vấn đề này, chương trình thảo luận đã
vượt quá tầm kiểm soát và xâm chiếm toàn bộ nước Đức, đạt được thành
công vang dội.
Ân
xá, từ chỗ là một trợ giúp cho việc hoán cải, trở thành đồng nghĩa với
sự ô nhục và là ngòi nổ của một cuộc phản kháng bùng nổ khắp châu Âu: và
nó vẫn như vậy đối với nhiều lương tâm, ngày nay vẫn còn bị xúc phạm
bởi mức độ nghiêm trọng của những gì đã xảy ra cách đây 5 thế kỷ.
Chúng
ta tìm cách sắp xếp lại mọi việc: Giáo hội ngày nay nói gì về giáo lý
ân xá? Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách nói điều không còn giá trị nữa:
ngày, tháng, năm “thi hành án” đã bị Đức Phaolô VI bãi bỏ vào năm 1967.
Ơn toàn xá ngày nay chỉ có thể là một phần hoặc toàn thể, và rất hạn chế
so với trước đây. Những phẩm chất này không phải là điều quan trọng
nhất: ngày nay, trên hết, giáo lý thiêng liêng về ân xá đã được rao
giảng: giáo lý về tàn tích của tội lỗi.
Sau
khi xưng tội, tội lỗi được loại bỏ, nhưng nỗi hoài niệm về tội lỗi vẫn
còn. Sự dữ vẫn duy trì sức hấp dẫn của nó, tiếp tục cám dỗ chúng ta, làm
cho chúng ta yếu đuối, khiến chúng ta luôn sa vào cùng một tội lỗi. Bất
cứ ai “nghiêm túc” với Chúa đều biết rõ rằng chúng ta không thể tự lừa
dối mình khi nghĩ rằng chỉ xưng tội là đủ để chấm dứt tội lỗi. Ngay cả
cơ thể sau khi trải qua cơn bệnh hiểm nghèo cũng cần một thời gian dưỡng
bệnh lâu dài trước khi lành hẳn. Sự lôi cuốn của tội lỗi, những tàn dư
của nó trở thành gánh nặng cho những ai muốn bước nhanh theo ý muốn của
Thiên Chúa.
Hình
phạt của tội lỗi chính là thời gian dưỡng bệnh kéo dài, ngăn cản chúng
ta chạy nhanh đến tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Sau
đó, để giúp những người mong muốn được chữa lành nhanh hơn, Giáo hội
chỉ ra một số việc tốt chắc chắn hữu ích cho việc chữa lành sớm hơn:
trên thực tế, chúng luôn giống nhau. Thực ra, chúng ta được yêu cầu tăng
cường sự hiệp thông với Chúa Kitô trong các bí tích, với đức tin của
Giáo hội (đọc Kinh Tin Kính và cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng) và với
anh em chúng ta (các công việc bác ái). Khi ân xá (một phần hoặc toàn
thể) được ban cho những công việc này, chúng ta tin bằng đức tin rằng
sức hấp dẫn đối với tội lỗi giảm đi và thay vào đó, lòng bác ái và sự
thánh thiện tăng lên một cách đặc biệt mãnh liệt. Những cặn bã của tội
lỗi được loại bỏ và người ta được chữa lành nhanh hơn trước.
Đó là lý do tại sao ngày nay cũng như thời đó, một Kitô hữu tốt lành không bỏ lỡ “món quà đặc biệt” này!
Phong
trào Đại Kết được phát sinh từ các Giáo hội Tin Lành, nhằm nỗ lực liên
kết, hiệp thông từ hơn nửa thế kỷ nay giữa các Kitô hữu thuộc các Giáo
hội Tin lành, Công giáo, Chính Thống giáo - nhằm cổ vũ sự thống nhất đức
tin và hiệp thông giữa các cộng đồng Kitô giáo bị chia rẽ.
Ý nghĩa từ Đại Kết
Tiếng
"Đại Kết" dịch bởi từ "oecumenismus". Thực ra thì từ này trong nguyên
ngữ tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh mang rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Hy
Lạp, từ "oikouméne" (bởi danh từ "oikos": nhà) lúc đầu có nghĩa là những
vùng đất đã có người cư ngụ (đã xây cất nhà cửa), rồi dần dần mở rộng
ra đến toàn thể thế giới. Cách riêng hoàng đế Rôma mang tước là
"oikumêne", nghĩa là bá chủ khắp thế giới (chỉ trừ những vùng đất hoang
dã của quân man di, barbaroi). Từ đó mà sinh ra tính từ "oecumenicus"
(thí dụ: "concilium oecumenicum": công đồng do hoàng đế triệu tập, hay
là công đồng quy tụ hàng Giám mục thế giới). - Khi phong trào hợp nhất
các Kitô hữu ra đời vào thế kỷ 20, người ta muốn lấy lại tiếng
"oecumenismus" để biểu lộ niềm khát khao được thấy Giáo hội mang chiều
kích hoàn vũ, vượt qua hết mọi hình thức phân ly chia rẽ.
Lịch sử hình thành
Có
thể lấy năm 1910 như khởi điểm của phong trào Đại Kết. Vào năm ấy một
Đại Hội của các Hội truyền giáo Tin lành (World Missionary Conference)
được tổ chức ở Edinburgh, (Scotland). Lý do đưa tới việc tổ chức Đại hội
là thực trạng chua chát của các xứ truyền giáo, khi mà các giáo đoàn
trẻ chất vấn những nhóm thừa sai: "Tại sao các ông đều rao giảng một đức
Kitô như nhau, mà các ông lại chia rẽ thành bao nhiêu là phe nhóm, nào
là Metodist, nào là Luteranist, nào là Episcopalist? Tại sao các ông vừa
mang cho chúng tôi Tin Mừng của Đức Kitô mà vừa mang theo các sự phân
hóa từ Âu Mỹ sang đây làm gì?". Chính vì ý thức rằng sự chia rẽ giữa các
Kitô hữu là một chướng ngại cho việc truyền giáo, cho nên các Hội
Truyền giáo mới quyết định nhóm họp lại để tìm cách thức giải quyết.
Cuộc gặp gỡ giữa các Hội Truyền giáo đã dần dần đưa tới sự gặp gỡ giữa
các Giáo hội dưới danh nghĩa của Hội đồng quốc tế truyền giáo
(International Missionary Council) ra đời năm 1921.
Từ kinh
nghiệm gặp gỡ trên, dần dần nảy ra hai cơ quan khác, biểu lộ cho hai
đường lối để tiến tới sự hiệp nhất: một đàng về đạo lý, một đàng về hoạt
động. Cơ quan thứ nhất mang tên là "Faith and Order" (tiếng Pháp: "Foi
et Constitution" nghĩa là "Đức tin và Định chế) chuyên về các vấn đề đức
tin và thể chế của Giáo hội. Họ đã tổ chức hai Hội nghị quốc tế ở
Lausanne (1927) và Edinburgh (1937). Cơ quan thứ hai mang danh là "Life
and Work" (tiếng Pháp: "Vie et Action" nghĩa là "Đời sống và Hành động")
được thành hình ngay từ năm 1925 tại Hội nghị Stockholm (Thụy Điển).
Phương châm của họ là: "đạo lý năng gây chia rẽ, còn hành động thì sẽ
gây đoàn kết". Vì vậy việc hợp tác vào các công tác phụng sự xây dựng xã
hội sẽ dần dần đưa các giáo hội xích lại với nhau.
Tuy nhiên
sau hội nghị lần thứ hai tại Oxford năm 1937, họ nhận thấy rằng sự chia
rẽ về đạo lý cũng mang theo những chia rẽ về quan điểm hành động. Do đó
mà hai cơ quan đã đồng ý sát nhập lại thành một Tổ chức mang danh là
"Hội đồng thế giới các Giáo hội" (World Council of Churches), với quy
chế tạm thời được biểu quyết tại Utrecht năm 1938. (Lưu ý: dựa theo Pháp
ngữ, Conseil Oecuménique des Églises trong tiếng Việt thường hay dịch
là "Hội đồng đại kết các Giáo hội", nhưng có lẽ không chỉnh lắm; có thể
đối chiếu với tiếng Tây Ban Nha Consejo Mundial de las Iglesias). Tiếc
rằng thế chiến thứ hai bùng nổ, cho nên phải chờ tới năm 1948 thì mới có
thể triệu tập Đại hội đầu tiên tại Amsterdam (Hà Lan) từ ngày 22 tháng 8
tới ngày 4 tháng 9. Tiêu chuẩn đạo lý căn bản để gia nhập Hội đồng là
chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Phải chờ tới năm 1961,
Đại hội New Delhi mới hoàn chỉnh công thức phát biểu đạo lý căn bản như
sau: "Hội đồng thế giới các Giáo hội là một hội nghị của các Giáo hội
tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế theo Kinh Thánh;
do đó họ nỗ lực thể hiện ơn gọi chung hầu làm vinh danh Thiên Chúa duy
nhất nhưng Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Đúng ra,
đây không phải là một tín biểu mới, nhưng chỉ muốn đặt ra một cơ sở tối
thiểu cho các cuộc đối thoại giữa các thành viên. Thực vậy, trong quá
khứ cũng như trong hiện tại, không thiếu lần có những nhóm tự xưng là
Kitô hữu nhưng lại không chấp nhận thiên tính của đức Kitô hoặc không
chấp nhận tín điều Chúa Ba Ngôi. Hội đồng thế giới các Giáo hội không
phải là một thứ siêu Giáo hội, cũng chẳng phải là Giáo hội duy nhất mà
phong trào đại kết mong đạt đến. Tổ chức này chỉ là nơi để các Giáo hội
đến gặp gỡ học hỏi lẫn nhau, và tương trợ nhau trong sứ mạng truyền
giáo. Trụ sở của Hội đồng đặt tại Genève.
Từ ngày thành lập tại
Amsterdam năm 1948 đến nay, Hội đồng đã tổ chức các Đại hội sau đây:
Evanston (1954), New Delhi (1961), Uppsala (1968), Nairobi (1975),
Vancouver (1983) Canberra (1991). Đại hội lần tới được dự trù sẽ họp vào
năm 1998 tại Harare (Zimbabwe).
Hiện nay có tới hơn 300 Giáo
Hội đã làm thành viên của Hội đồng, trong đó có cả các Giáo hội chính
thống. Giáo hội Công giáo không gia nhập Hội đồng, vì quan điểm khác
nhau về Giáo hội học. Tuy nhiên, từ năm 1961, Giáo hội Công giáo gửi
quan sát viên tham dự các Đại hội, và nhất là từ năm 1965 đã thành lập
một nhóm làm việc chung với Hội đồng. Ngoài ra, Giáo hội Công giáo còn
cử 12 đại biểu làm thành viên chính thức của Ủy ban "Đức Tin và Định
chế". Như đã nói trên đây, vai trò của ủy ban này là nghiên cứu những
khía cạnh thần học nhằm tiến tới sự hợp nhất các Kitô hữu. Theo quan
điểm của ủy ban, sự hợp nhất các Kitô hữu có nghĩa là sự thông hiệp
trong đức tin, trong đời sống làm chứng tá Phúc âm và trong sứ mạng
truyền giáo. Để tiến tới sự hiệp nhất đó, càn phải qua 3 chặng sau đây:
1.Cùng nhau tuyên xưng một đức tin tông truyền;
2.Nhìn nhận nơi các Giáo hội cùng có chung những yếu tố tông truyền, đặc biệt là bí tích rửa tội, Thánh thể và các tác vụ;
3.Thiết
lập những cơ chế chung nhằm bảo đảm việc chung nhau làm chứng tá, cũng
như những cơ quan có thẩm quyền quyết định đường lối hành động và giảng
dạy.
Chặng thứ nhất được đánh dấu với văn kiện "Tuyên xưng Một
Đức Tin" (Confessing the One Faith) được hoàn chỉnh vào năm 1993 trong
phiên họp tại Santiago de Compostela. Chặng thứ hai được tiến hành với
việc tham khảo lược đồ mang tên "Rửa tội - Thánh thể - Tác vụ" (Baptism,
Eucharist, Ministry, gọi tắt bằng 3 chữ đầu là BEM, soạn tại Lima năm
1982).
Sự tiến triển của Phong trào Đại kết được đánh dấu qua những biến cố quan trọng sau đây:
Thiết lập Hội đồng các Hiệp Hội Truyền giáo, tại Edimbourg, năm 1910.
Từ năm 1935, linh mục Paul Couturier đã có nhiều hoạt động nhằm cổ vũ cho Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
Thiết
lập Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội (C.O.E) năm 1948, tại Amsterdam (Hà
Lan) thành viên lúc đó gồm 147 tổ chức Giáo Hội (đến nay là trên 300
thành viên) thuộc các Giáo hội Anh Giáo, Tin Lành và Chính Thống giáo
Đông phương. Từ năm 1961, Giáo hội Công giáo Rôma chính thức là quan sát
viên của Hội Đồng này.
Về phía Giáo hội Công giáo Rôma, năm
1960, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu
Kitô, có sứ mạng xây dựng mối liên lạc đại kết với các Giáo Hội ngoài
Công Giáo.
Công đồng Vatican II từ năm 1962 đến 1965. Nhiều tài
liệu đã được soạn thảo do các Uỷ ban hỗn hợp về đối thoại, góp phần
thăng tiến sự hiệp nhất giữa các Giáo Hội, như những dấu chỉ của niềm hy
vọng vào sự hiệp thông trọn vẹn trong tương lai. Đặc biệt phải kể đến
Sắc lệnh Unitatis Redintegratio (1964). Tinh thần đại kết cũng được nhấn
mạnh trong các văn kiện khác của Công đồng: Hiến Chế tín lý về Giáo Hội
(Lumen Gentium), Hiến Chế tín lý về Mặc khải của Thiên Chúa (Dei
Verbum), Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo…
Một
văn bản quan trọng đã được ký kết giữa hai Giáo hội Công giáo Rôma và
Tin Lành có nội dung liên quan đến giáo lý chung về ơn công chính hóa
bởi ân sủng, qua đức tin như phương tiện (vấn đề này đã gây nên nhiều
tranh cãi và dẫn đến cuộc Cải cách ở thế kỷ 16). Liên đoàn quốc tế Giáo
hội Luther (F.L.M) và Giáo Hội Công giáo đã cùng ký văn bản này tại
Augsbourg ngày 30 tháng 10 năm 1999. Trong khối Pháp ngữ, với sự cộng
tác của các chuyên viên các Giáo hội Kitô, bản dịch kinh Lạy Cha đã được
thực hiện năm 1966 (được dùng trong Phụng vụ hiện nay tại các nước
thuộc khối Pháp ngữ) và bản dịch Kinh Thánh Đại kết (TOB) đã thực hiện
năm 1972.
Ngoài ra còn có những cuộc gặp gỡ lịch sử mở ra những
bước tiến mới trong tinh thần Đại Kết: cuộc gặp gỡ giữa Giáo hoàng
Phaolô VI và Thượng phụ Constantinopolis Athenagoras tại Jerusalem năm
1964; Cuộc viếng thăm của Giáo hoàng Phaolô VI tại Tòa Thượng Phụ
Constantinopolis năm 1967, rồi tại Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội tại
Genève năm 1969. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nối bước các Vị Tiền
Nhiệm khi đến thăm Tòa Tổng Giám mục Giáo Hội Anh Giáo Canterbury 1982
và nhiều cuộc gặp gỡ với các vị lãnh đạo cấp cao của các Giáo Hội Kitô
khác.
Những cố gắng tiến tới Đại kết còn thể hiện qua những
nghiên cứu chung về Thần học và Thánh Kinh, những buổi hội thảo và nhiều
dịp gặp gỡ quan trọng khác trong các lãnh vực quốc tế, khu vực và quốc
gia.
Qua Tông huấn Pastor Bonus ký ngày 28 tháng 6 năm 1988,
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đổi tên “Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu
Kitô” thành “ Hội đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu”
(CPPUC). Danh xưng mới này chính thức được sử dụng từ ngày 1 tháng 3 năm
1989.
Phong trào Đại Kết nhằm thực hiện lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu: “xin cho họ nên một (…) để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”
(Ga 17,21). Phong trào này đề nghị nhiều phương pháp khác nhau: cầu
nguyện, kiên nhẫn, cộng tác và can đảm làm việc. Giáo hoàng Phaolô VI đã
nhận định Phong trào Đại kết “là một sứ mạng huyền nhiệm và quan trọng
nhất trong triều đại Giáo Hoàng của Ngài”, và Giáo hoàng Gioan Phaolô II
luôn luôn nhắc lại rằng đó là một trách nhiệm không thể thoái thác và
dửng dưng được.
Giáo hội Công giáo Rôma với Phong trào Đại Kết
Trong
số các nhân vật mở đường cho phong trào đại kết về phía Công giáo, ta
có thể đến Hồng y John Henry Newman (1801-90) hồi cuối thế kỷ 19. Khi
còn là phần tử của Giáo hội Anh quốc, cha Newman đã mở những cuộc hội
thảo để xích lại gần Giáo hội Công giáo Rôma. Ý nguyện đó vẫn tiếp tục
sau khi cha gia nhập Công giáo. Sang thế kỷ 20, vào những năm 1921-1926,
tại Malines đã có những cuộc đối thoại giữa Lord Halifax, một giáo dân
Anh giáo với linh mục Portal người Pháp, dưới sự điều động của Hồng y
Mercier.
Năm 1925, Linh mục Lambert Beauduin (1873-1960) thành
lập đan viện Biển Đức tại Chevretogne và năm 1926, Linh mục C.J. Dumont
mở trung tâm "Istina" hướng tới việc học hỏi và đối thoại với các Giáo
hội Đông phương. Năm 1933, Linh mục Paul Couturier (1881-1953) đã mở
trung tâm Công giáo đại kết ở Lyon, cổ động việc cầu nguyện cho các Kitô
hữu được hợp nhất. Năm 1937, Linh mục Yves Congar (1904-1995) xuất bản
quyển sách Chrétiens désunis. Principes d'un "oecuménisme catholique",
một tác phẩm Thần học Công giáo đầu tiên về Đại Kết.
Thế nhưng
đó chỉ là những sáng kiến cá nhân. Tòa Thánh tỏ ra dè dặt đối với phong
trào Đại Kết: thông điệp Mortalium animos của Giáo hoàng Piô XI (ngày 6
tháng 1 năm 1928) chấp nhận một đường lối hợp nhất duy nhất là các nhóm
ly khai phải trở về với Giáo hội Công giáo Rôma.
Dưới thời Giáo
hoàng Piô XII, huấn thị De motione ecumenica của Bộ Thánh vụ (ngày 20
tháng 12 năm 1949) hé mở cho người Công giáo được phép tham gia vào các
hội nghị Đại Kết với một số điều kiện.
Phải chờ tới khi Giáo
hoàng Gioan XXIII đắc cử Giáo hoàng thì lập trường của Tòa Thánh mới
thay đổi. Sau khi loan báo triệu tập Công đồng Vatican II, vào ngày Lễ
Hiện xuống năm 1960 (ngày 5 tháng 6), ngài đã cho thành lập Văn phòng cổ
vũ sự hợp nhất các Kitô hữu do đức Hồng y Augustinô Bea (1881-1968) làm
chủ tịch. Việc đối thoại đại kết trở thành một điểm then chốt trong
chương trình của công đồng.
--------------------------
Source: wikipedia.org
Lược sử Phong trào Đại kết giữa các Giáo hội Kitô
I. NHIỆM THỂ CHÚA KITÔ BỊ XÂU XÉ
Theo Niên giám thống kê của Giáo Hội Công giáo 1997, số người tin vào Chúa Kitô trên toàn thế giới là1.994.754.000 người. Trong thành phần Kitô hữu này, có1.005.254.000 công giáo[1], 989.500.000
tín hữu thuộc các Giáo Hội anh em như Chính Thống (khoảng 15 giáo hội
đông phương), Tin Lành (luthéranisme, calvinisme, méthodisme,
congrégationnalistes, presbytérianisme… cùng hàng trăm giáo hội khác) và
Anh giáo.
Số liệu trên một mặt chứng tỏ sự phát triển liên tục
của Kitô giáo suốt 20 thế kỷ qua: từ một nhóm nhỏ mười hai tông đồ tại
Palestine lên đến gần 1/3 nhân loại trên toàn cầu. Nhưng mặt khác cũng
bộc lộ sự phân hóa giữa những môn đệ của Chúa Kitô. Trong 10 thế kỷ đầu,
không phải là không có vấn đề xung đột nội bộ, lạc giáo nhưng không có
sự chia tay nghiêm trọng chính thức của một đa số Kitô hữu như thế. Sự
phân ly trầm trọng này bắt đầu từ thế kỷ XI với anh em Chính Thống giáo
Đông phương (1054), sau một cuộc xung đột kéo dài giữa Constantinople
(trung tâm của một Kitô giáo mang nhiều đặc tính huyền nhiệm, chiêm niệm
và thi vị) và Roma (biểu trưng cho một Kitô giới mang đậm sắc thái pháp
lý, hoạt động và chính trị. Từ đó, người ta phân biệt Giáo Hội Tây
phương, với thủ lãnh thiêng liêng là Đức Giáo hoàng, Giám mục Roma và 4
tòa Thượng Phụ Giáo chủ Đông phương: Constantinople, Alexandrie,
Antioche và Jérusalem.
Sang
thế kỷ XVI, là cuộc đại ly giáo với anh em Tin Lành: sắc chỉ Exurge
Domine (15.06.1520) của Đức Giáo hoàng Lêô X lên án các lập trường của
Luther. Cuộc chia tay với Anh giáo diễn ra năm 1534 mà tác nhân lịch sử
là vua Henri VIII. Quốc hội Anh ban hành luật Quyền tối thượng: “Nhà vua
là người lãnh đạo giáo hội Anh, có quyền thẩm phán các vấn đề thuộc
linh, có quyền phong chức các phẩm trật, Tất cả tài sản của Giáo Hội Anh
đều thuộc về nhà vua.”
Không chỉ xa rời nhau mà thôi, bi thảm
hơn, đã có lúc những người con cùng một Cha trên trời này trở nên kẻ thù
và sát hại lẫn nhau. Chẳng hạn như những cuộc chiến huynh đệ tương tàn
giữa anh em Kitô hữu với nhau tại Đức, Pays-Bas, Bohême. Ở Pháp, từ
1562-1598, người ta tính có đến 8 cuộc “chiến tranh tôn giáo” giữa Công
giáo và Tin Lành, với cuộc thảm sát tại Saint-Barthélemy gây tử vong cho
30.000 người, sang thế kỷ XVII lại thêm cuộc chiến kéo dài 30 năm
(1618-1648). Tất nhiên, tham vọng hay quyền lợi chính trị của một số cá
nhân cũng đan xen vào các nguyên do tôn giáo làm phát sinh các cuộc
chiến tranh này ; nhưng phải nhìn nhận rằng viện cớ “Chống Cải Cách”,
một số người Công giáo thời bấy giờ đã tìm cách triệt hạ Tin Lành bằng
mọi phương tiện.
Giữa những tín hữu Công giáo và Tin Lành Việt Nam
nói chung, thì chưa đến nỗi đổ máu như thế, nhưng thường chỉ dừng ở
hiện tượng “khẩu chiến” mà thôi. Tuy nhiên, nếu như không có thái độ thù
nghịch thì cũng khá dửng dưng, xa cách hay không có thiện cảm đối với
nhau. Một trắc nghiệm nhỏ để xem ta có sống tương hợp với Tin Mừng chưa:
Phản ứng của ta thế nào khi nghe anh em Tin Lành đề cập đến việc xưng
hô với linh mục hay thờ kính ảnh tượng trong nhà thờ? Thái độ của tôi ra
sao đối với vài anh chị em rời cộng đồng Công giáo mà gia nhập giáo hội
Tin Lành?
Gần 2 tỷ người cùng công nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu
Thế, nhưng họ lại thường tranh luận với nhau về chính Người; loan báo
cùng một Tin Mừng, nhưng đôi khi lại chống báng lẫn nhau. Cùng tuyên
xưng một kinh Tin Kính các Tông đồ, nhưng trong những đền thờ khác nhau.
Cùng được thánh tẩy bởi một Phép Rửa, nhưng lại đối kháng với những
Giáo Hội khác mình. Những thái độ phi Tin mừng kể trên là một sự chà đạp
ước muốn và ý nguyện của Thầy Chí Thánh: “Xin cho tất cả nên một”. (Ga
17, 21). Một lầm lỗi chung nhưng người của mỗi bên đều thản nhiên “rửa
tay” với cùng một ý thức: “Đó là lỗi của người khác”. Đó không chỉ là
một sự phản bội đối với Đức Kitô và mà còn đối với những người nghèo
đang tìm kiếm ánh sáng chân lý. Ngoài ra, sự chia rẽ giữa anh em Kitô
hữu là một “scandale” đối với thế giới và cản trở công cuộc Phúc Âm hóa.
Dưới sự tác động của Thánh Thần hòa giải, các Kitô hữu không thể làm
ngơ trước sự phân hóa này, nếu muốn làm môn đệ trung thành với Đức Kitô.
II. TRỞ VỀ VỚI Ý NGUYỆN CỦA ĐỨC KITÔ
1. Những tông đồ của đối thoại đại kết
Linh mụcPortal, Lord Halifax cùng Hồng yMercier đã tổ chức các cuộc trao đổi tại Melines (Bỉ) từ 1921-1925, nhằm đối thoại với Giáo Hội Anh giáo. Năm 1925, Dom LambertBeauduin thành lập Tu viện Hiệp nhất (Prieuré de l’Unité) ở Chevetogne thuộc nước Bỉ. Tại Pháp, nhờ sự thúc đẩy của chaCouturier, “đại tông đồ của sự hiệp nhất Kitô giáo”, Tuần lễ Cầu nguyện cho sự Hiệp nhất
(18-25.01) gặt hái được sự thành công đáng kể ngay từ năm 1932. Linh
mục này xác tín rằng sự hiệp nhất sẽ diễn ra vào thời gian và theo cách
thức mà Chúa Kitô muốn. Tác phẩm Chrétiens désunis của chaCongar (nay là Hồng y), xuất bản năm 1937, được xem là hiến chương của phong trào đại kết trong Giáo Hội Công giáo.
Tương
quan giữa anh em Kitô hữu sau 4 thế kỷ bị che khuất bởi bóng tối chia
rẽ, nay Ánh sáng Tin Mừng lại lộ diện từ một trực giác chính của Đức
Thánh ChaGioan XXIII
về Công đồng chung: giữa một thế giới đang bị xâu xé, chúng ta hãy cống
hiến một tấm gương và sự giúp đỡ của một Kitô giáo yêu thương lẫn nhau
và bắt đầu hiệp nhất.
Ngày 21.01.1959, ngài đã nói khi công bố triệu tập Công Đồng Vatican II:
“Chúng ta sẽ không làm ra một vụ án lịch sử. Chúng ta sẽ không tìm hiểu
xem ai sai ai đúng. Trách nhiệm được chia sẻ. Chúng ta sẽ chỉ nói:
chúng ta hãy hòa giải với nhau”. Tái lập sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu là một trong những mục đích chính của Công Đồng thứ 21 này.
Trong
một nghĩa cử mang tính ngôn sứ, Đức Gioan XXIII đã mời 80 quan sát viên
ngoài Công giáo tham dự các khóa họp Công Đồng. Đến khóa họp IV, có đến
90 đại biểu của các Giáo Hội Chính Thống và Tin Lành. Vào dịp tiếp đón
những người anh em này, ngài không ngồi trên ngai tòa mà chỉ ngồi vào
một chiếc ghế bành đơn giản. Trong thái độ khiêm tốn, huynh đệ, ngài chú
giải câu 20 của Thánh vịnh 68: “Chúa đáng chúc tụng mỗi ngày, vì chính
Ngài đã mang lấy gánh nặng của chúng con”.
2. Phong trào đại kết
Phong
trào đại kết được phát sinh dưới tác động của Chúa Thánh Thần, nhằm nỗ
lực được phát triển từ hơn nửa thế kỷ nay giữa các Kitô hữu thuộc các
Giáo Hội Tin lành, Công giáo, Chính thống - nhằm cổ võ sự thống nhất đức
tin và hiệp thông giữa các cộng đồng Kitô giáo bị chia rẽ. Cần ghi nhận
rằng khởi động ban đầu của phong trào này phát xuất từ phía anh em Tin
Lành.
Trong cuộc Hội nghị quốc tế của các Hiệp hội Truyền giáo Tin
Lành diễn ra 1910 tại Edimbourg (Écosse), một đại biểu của các Giáo Hội
trẻ Cận Đông đã thốt lên với niềm xúc cảm: “Chúng tôi xin cám ơn
quí vị đã gởi đến cho chúng tôi những nhà truyền giáo giúp chúng tôi
nhận biết Đức Giêsu Kitô. Nhưng quí vị cũng mang đến cả sự phân cách và
chia rẽ: những người này giảng thuyết cho chúng tôi về giáo hội Giám Lý,
người kia thì Tin Lành Luther, kẻ nọ lại giảng về giáo hội
congrégational hay épiscopal. Chúng tôi xin quí vị rao giảng cho chúng
tôi Phúc Âm và hãy để cho chính Chúa Kitô, nhờ tác động của Thần Khí,
khơi dậy từ các dân tộc chúng tôi, một Giáo Hội phù hợp với những đòi
hỏi của Người cũng như phù hợp với tinh thần của giống nòi chúng tôi,
tức là Giáo Hội Chúa Kitô tại Nhật Bản, Giáo Hội Chúa Kitô tại Trung
Quốc. Làm thế nào để Giáo Hội Chúa Kitô được thoát khỏi các thứ “chủ
nghĩa” (isme) mà quí vị sử dụng khi rao giảng Phúc Âm giữa chúng tôi” (Th.Rey Mermet, CROIRE Tom 3 – Vivre la foi avec concile Vatican II, tr. 348-349).
Tiếng
kêu có tính cách ngôn sứ này đã tạo nên một âm vang mạnh mẽ nơi nhiều
người Tin Lành. Từ đó dần dần hình thành hai phong trào cộng tác liên
tín phái (interconfessionnelle): phong tràoSống và Hành Động (1925) cổ võ thực hành chứng từ Kitô giáo và phong tràoĐức Tin và Hiến Chế(1927) nhắm đến công tác giáo lý học thuyết. Đến năm 1948, hai phong trào này kết hợp lại thànhHội đồng Đại kết các Giáo Hội (C.O.E). Hội đồng Đại kết các Giáo Hội này vừa mừng sinh nhật thứ 50 vào năm 1998.
Từ năm 1937,
anh em Chính Thống giáo đã góp phần tích cực vào phong trào Đại kết khi
tham gia hội nghị với hai phong trào tiền thân của Hội đồng Đại kết các
Giáo Hội. Anh em Anh giáo đã và đang giữ một vai trò quan trọng trong
cuộc đối thoại Đại kết, theo đường hướng của hội nghị Lambeth (1920):
coi Kinh Thánh làm quy tắc, trung thành với Kinh Tin Kính các Tông đồ,
chấp nhận hai bí tích của Tân ước. Còn phía Công giáo thì dấn thân chính
thức vào phong trào đại kết từ thời Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, với hai
sự kiện quan trọng.
Thứ nhất là việc thành lậpVăn Phòng Hiệp nhất
(1960) do Hồng y Bea và Willebrand nối tiếp nhau phụ trách. Văn phòng
này cùng với các đại diện tại các quốc gia đã dấn thân vào hàng loạt
cuộc đối thoại đào sâu với các Giáo Hội ngoài Công giáo và với Hội đồng
Đại kết các Giáo Hội. Nhiều tiểu ban, nhóm làm việc chính thức hay không
chính thức (chẳng hạn như Nhóm Dombes) đã đưa ra những Biên bản đồng ý
chung về một số chủ đề quan trọng như Thánh Thể, các thừa tác vụ, Đức
Maria (Tài liệu của nhóm Dombes mang tựa đề “Đức Maria trong ý định của
Thiên Chúa và sự hiệp thông các Thánh” là công trình suy tư chung của 21
mục sư và 19 linh mục, công bố 1998).
Thứ hai là sự ra đờiSắc lệnh về Đại kết(Unitatis Redintegratio ). Ngày 21.11.1964 các nghị phụ Công Đồng đã nhất trí thông qua Sắc lệnh về Đại kết với 2137/2148 phiếu thuận. Qua Sắc lệnh này, Công đồng yêu cầu các Giáo Hội Kitô khác nhau trước hết, hãy quí trọng gia tài chung của mình, đó làĐức Kitô và Tin Mừng.
Đừng tố cáo những Kitô hữu không công giáo về tội ly giáo. Công Đồng
mong muốn những người Công giáo cũng nhận biết thiếu sót và trách nhiệm
lịch sử của mình trong các cuộc ly giáo. Đó cũng là điều mà tuyên bố
ngày 07.12.1962, của Đức Phaolô VI và Đức Thượng phụ Athénagoras nhấn
mạnh.
III. NHỮNG NẺO ĐƯỜNG VÀ HOA TRÁI CỦA ĐỐI THOẠI ĐẠI KẾT
Từ
năm 1965, Ủy ban làm việc hỗn hợp (Commission Mixte de Travail) giữa
Giáo Hội Công giáo và Hội đồng Đại kết các Giáo Hội được thành lập. Ủy
ban này nhóm họp mỗi năm một lần để tổng kết hoạt động cộng tác giữa
Genève và Roma. Trong các dịp này, Ủy ban đưa ra những tuyên ngôn về một
số vấn đề quan tâm chung, chẳng hạn như:
– Tính cách Công giáo và Tông truyền (1968)
– Chứng từ chung và nhiệt tình tiêu cực (1970)
– Chứng từ chung của các Kitô hữu (1980)
– Trật tự chân lý Đức tin (1990)
– Giáo Hội diạ phương và phổ quát (1990)
Tiếp bước các vị tiền nhiệm trên con đường Đại kết, năm 1995, Đức Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệpUt Unum Sint
về dấn thân Đại kết. Qua đó, chúng ta ghi nhận được những kết quả của
cuộc đối thoại Đại kết kể từ công đồng Vatican II đến nay:
– Tái lập tình huynh đệ.
– Liên đới trong hoạt động phục vụ con người.
– Tập chú vào Lời Chúa và phượng tự.
–
Đánh giá cao những giá trị thực sự nơi các Giáo Hội khác. Cần lưu ý
rằng những gì được Chúa Thánh Thần thực hiện nơi những anh em chia cách
với chúng ta cũng góp phần xây dựng Giáo Hội chúng ta.
– Sự tiến
triển trong hiệp thông giữa Kitô hữu thuộc các Giáo Hội khác nhau. Tương
quan và các cuộc đối thoại thần học mà các Kitô hữu thực hiện giúp cho
họ ý thức hơn về những dữ kiện đức tin mà các Kitô hữu có chung với
nhau. Đồng thời chứng tỏ sự tìm kiếm hiệp nhất giữa các Kitô hữu không
chỉ là một hành động tùy thích mà còn là một đòi hỏi phát sinh từ bản chất của công đồng Kitô giáo.
– Thắt chặt hơn quan hệ đối thoại với các Giáo Hội Đông phương sau nhiều thế kỷ tương quan căng thẳng.
–
Nối lại quan hệ với Thượng phụ giáo chủ Chính Thống đại kết, thiết lập
cuộc đối thoại về thần học giữa Giáo Hội Công giáo và các Giáo Hội có
liên hệ về giáo luật với tòa Thượng phụ giáo chủ Constantinople.
–
Đối thoại như một cuộc kiểm điểm lương tâm. Nhận biết điều kiện tội
nhân của mình là một đặc tính của tinh thần của đối thoại đại kết.
–
Đối thoại để giải quyết những bất đồng. Tình yêu chân lý là chiều kích
sâu xa nhất của việc tìm kiếm sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.
–
Tương quan giữa các Kitô hữu không chỉ nhắm đến sự hiểu biết lẫn nhau,
cầu nguyện chung và đối thoại. Tương quan này còn dự kiến và đòi hỏi
ngay từ bây giờ tất cả những sự cộng tác thực hành khả thi trên nhiều
mức độ: mục vụ, văn hoá, xã hội cũng như chứng tá về sứ điệp Tin Mừng
(Jean Paul II, Ut Unum Sint , số 40).
Một sự kiện lịch sử
vừa diễn ra vào ngày 31.10 .1999 tại Ausbourg (Đức), sự kiện đáng cho
mọi Kitô hữu lưu tâm và cảm tạ Cha về hoa trái của Chúa Thánh Thần trên
chặng đường đại kết. Đó là Tuyên ngôn chung giữa Công giáo và anh em Tin
Lành Luther về những chân lý nền tảng của học thuyết “Công chính hóa”,
được ký bởi đại diện của hai Giáo Hội: Hồng y Edward Cassidy (chủ tịch
Hội Đồng Giáo hoàng Cổ võ sự Hiệp nhất Kitô hữu) và Giám mục Giáo Hội
Luther, Christian Krase (đại diện Liên Hiệp Tin Lành Luther Thế giới).
Tưởng cũng nên biết ngày31.10.1517
là thời điểm mà Luther niêm yết 95 Luận đề tại lâu đài Wittenberg.
Tuyên ngôn chung này đóng một dấu ấn quan trọng sau một cuộc tranh luận
kéo dài 469 năm giữa hai anh em cùng một gia đình Kitô hữu. Thật là ý
nghĩa khi tuyên ngôn về “Công chính hóa” này được ký kết tại Ausbourg
, là nơi mà các hoàng thân ủng hộ Luther trình cho hoàng đế Charles
Quint bản “Tuyên Tín Ausbourg”, tức là bản tham chiếu về đức tin của các
Giáo Hội Tin Lành. Có thể cô đọng nội dung chính của tuyên ngôn này nơi
quan điểm cơ bản sau đây: chỉ có Đức Tin mới mang lại ơn cứu độ, nhưng đức tin được thể hiện bởi Đức Ái.
Chúng
ta tạm dừng bài tìm hiểu về đối thoại đại kết với nhận định của Jean
Delumeau, một nhận định đáng cho mỗi người Kitô hữu suy nghĩ và hành
động cho công cuộc đối thoại Đại kết, “một con đường khó khăn, nhưng
chứa chan niềm vui”: “Tôi không ngần ngại tuyên bố: ngày nay, chúng
ta phải là Kitô hữu, trước khi là công giáo, Tin lành hay Chính thống.
Đối với tôi, tương lai Kitô giáo để đạt tới thành công, dù chỉ là một
phần, phải nhờ Đại kết. Không có Đại kết, Kitô giáo không có tính ‘đáng
tin’” (Jean DELUMEAU, “Une crise inédite”, trong le Monde, 5.6.1979).
Lời nguyện của Đức Kitô cần được tiếp tục kêu cầu và thể hiện nơi mỗi Kitô hữu, đặc biệt trong Năm Thánh này:
“Lạy Cha, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, xin cho họ cũng được ở
trong chúng ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai con... Xin cho họ được
hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai
con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Ga 17, 21.13).
Lm. Tâm Giao
Tài liệu tham khảo
Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio
Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ut Unum Sint, 1995
Hội Đồng Giáo Hoàng cổ võ sự Hiệp nhất Kitô hữu, Directoire pour l'application des principes et des normes sur l'oecuménisme, 1993.
Sự tiến triển của Phong trào Đại kết được đánh dấu qua những
biến cố quan trọng sau đây:
-Thiết lập Hội đồng các Hiệp Hội Truyền giáo, tại Edimbourg,
năm 1910.
-Từ năm 1935, Cha Paul Couturierđã có nhiều hoạt động nhằm cổ võ cho Tuần cầu
nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.
-Thiết lập Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội (C.O.E) năm 1948,
tại Amsterdam, thành viên lúc đó gồm 147 tổ chức Giáo Hội (đến nay là trên 300
thành viên) thuộc các Giáo Hội Anh Giáo, Tin Lành và Chính Thống. Từ năm 1961,
Giáo Hội Công Giáo chính thức là quan sát viên của Hội Đồng này.
-Về phía Giáo Hội Công Giáo, năm 1960, Đức Gioan XXIII thiết
lập Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô, có sứ mạng xây dựng mối liên lạc đại
kết với các Giáo Hội ngoài Công Giáo.
-Công đồng Vatican II từ năm 1962 đến 1965.Nhiều tài liệu đã được soạn thảo do các Uỷ
ban hỗn hợp về đối thoại, góp phần thăng tiến sự hiệp nhất giữa các Giáo Hội,
như những dấu chỉ của niềm hy vọng vào sự hiệp thông trọn vẹn trong tương lai.
Đặc biệt phải kể đến Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio (1964). Tinh thần đại kết
cũng được nhấn mạnh trong các văn kiện khác của Công Đồng:Hiến Chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium),Hiến Chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa
(Dei Verbum), Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo…
-Một văn bản quan trọng đã được ký kết giữa hai Giáo
HộiCông Giáo và Tin Lành có nội dung
liên quan đến giáo lý chung về ơn công chính hóa bởiân sủng, qua đức tin như phương tiện (vấn đề
này đã gây nên nhiều tranh cãi và dẫn đến cuộc Cải cách ở thế kỷ 16). Liên đoàn
quốc tế Giáo Hội Luther(F.L.M) và Giáo
Hội Công giáo đã cùng ký văn bản này tại Augsbourg ngày 30-10-1999. Trong khối
Pháp ngữ, với sự cộng tác của các chuyên viên các Giáo Hội Kitô, bản dịchkinh Lạy Cha đã được thực hiện năm 1966 (được
dùng trong Phụng vụ hiện nay tại các nước thuộc khối Pháp ngữ) và bản dịch Kinh
Thánh Đại kết(TOB) đã thực hiện năm
1972.
Ngoài ra còn có những cuộc gặp gỡ lịch sử mở ra những bước
tiến mới trong tinh thần Đại Kết: cuộc gặp gỡ giữa Đức Phaolô VI và Thượng Phụ
Constantinople Athenagoras tại Giê-ru-sa-lem năm 1964; Cuộc viếng thăm của Đức
Phaolô VI tại Tòa ThượngPhụ Constantinople
năm 1967, rồi tại Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội tại Genève năm 1969. Đức Gioan
Phaolô II đã nối bước các Vị Tiền Nhiệm khi đến thăm Tòa Giáo Chủ Giáo Hội Anh
Giáo Cantobéry1982 và nhiều cuộc gặp gỡ
với các vị lãnh đạo cấp cao của các Giáo Hội Kitô khác.
Những cố gắng tiến tới Đại kết còn thể hiện qua nhữngnghiên cứu chung về Thần Học và Thánh Kinh,
những buổi hội thảo và nhiều dịp gặp gỡ quan trọng khác trong các lãnh vực quốc
tế, khu vực và quốc gia.
-Qua Tông Huấn Pastor Bonus ký ngày 28-06-1988, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã đổi tên “Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô” thành “
Hội Đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô” (CPPUC). Danh xưng mới
này chính thức được sử dụng từ ngày 01-03-1989.
Phong trào Đại kết nhằm thực hiện lời cầu nguyện của Đức
Giêsu: “xin cho họ nên Một (…) để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).
Phong trào này đề nghị nhiều phương pháp khác nhau: cầu nguyện, kiên nhẫn, cộng
tác và can đảm làm việc. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhận định Phong trào Đại
kết “là một sứ mạng huyền nhiệm và quan trọng nhất trong triều đại Giáo Hoàng
của Ngài”, và Đức Gioan Phaolô II luôn luôn nhắc lại rằng đó là một trách nhiệm
không thể thoái thác và dửng dưng được.
Lời cầu nguyện của Cha Paul Couturier:
Lay Chúa Giêsu, trước
ngày chịu khổ hình vì chúng con,
Chúa đã cầu nguyện cho
các môn đệ Chúa được hoàn toàn hiệp nhất,
Như Chúa ở trongChúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa
Xin làm cho chúng con
cảm thấy đau đớn vì sự bất trung do chia rẽ
Xin cho chúng con
thành tâm thú nhận điều đó
Và có can đảm gạt bỏ
những gìlà dửng dưng, nghi ngờvà ngay cả sự ghen ghét thù oán đang ẩn nấp
trong chúng con.
Xin ban cho chúng con
được gặp gỡ nhau trong Chúa,
Để từ tâm hồn và miệng
lưỡi chúng con,
Không ngừng vang lên
lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô
Như Chúa hằng mong
muốn và với phương tiện mà Chúa muốn.
Lạy Chúa là Đức Aùi
hoàn hảo, xin hãysoi sáng cho chúng
conthấy con đường dẫn tới sự hiệp nhất
Trong sự tuân phục
tình yêu và chân lý của Chúa. Amen
TUẦN CẦU NGUYỆN CHO
SỰ HIỆP NHẤT CÁC TÍN HỮU KITÔ 2007
“Người làm cho những kẻ điếc nghe được và những kẻ câm nói
được” ( Mc 7,37)
Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô được chính
thức thiết lập từ tháng Giêng năm 1939. Đã 68 năm kể từ ngày thành lập, tuần
cầu nguyện này vẫn mang tính hiện tại với sức sống sôi động, mang lại nhiều
hiệu quả tích cực. Đặc biệttại những
nơi có những nhóm cầu nguyện đại kết, các tín hữu Kitô vẫn muốn tham dự để cùng
xin ơn “hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn, bằng phương tiện mà Thiên Chúa muốn”. Đề
tài của năm nay được gợi ý do một Uỷ Ban quốc tế liên kết giữa Hội đồng Tòa
Thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô và Hội Đồng đại kết các Giáo Hội. Uỷ
Ban này cùng công bố một tài liệu chính thứcchuẩn bị cho Tuần cầu nguyện năm nay.
Bài suy niệm của Tuần cầu nguyện năm 2007 do các cộng đoàn
Kitô miền Umlazi, gần Durban, Nam Phi đề nghị. Đây là nơi còn tồn tại nạn phân
biệt chủng tộc, nạn nghèo đói do hậu quả của chế độ “Apartheid” và tiếp tục gây
nên những thảm họa, nhất là những bệnh nhânSIDA hiện nay đã lây nhiễm và lan tràn trong gần một nửa dân số. Chính
sự xấu hổ và mặc cảm vì bệnh SIDA đã gây khó khăn cho cuộc chiến chống lại đại
họa này. Vì vậy, các cộng đoàn Kitô được mời gọi hãy “đập tan sựim lặng” đang đè nén và cô lập mọi người
trong nỗi đau của họ.
Trong chiều hướng đó, đoạn Tin Mừng Mc 7,31-37 được chọn
nhưtrọng tâm của Tuần cầu nguyện cho sự
hiệp nhất các tín hữu Kitô năm 2007. Đoạn Tin Mừng này kể lại Đức Giêsu đã chữa
lành một người câm. Khiban lại cho anh
khả năng nghe và nói, Đức Giêsu thể hiện quyền năng và ước muốn của Thiên Chúa
muốn cứu rỗicon người cách toàn vẹn, để
thực hiện lời Ngôn sứ Isaia: “Khi đó, mắt người mù sẽ thấy và tai người điếc sẽ
mở ra. Khi đó, người què sẽ nhảy nhót như nai và miệng người câm sẽ la lên vì
vui sướng” (35,5-6). Việc chữa lành người điếc cho phép anh ta được nghe Tin
Mừng do Đức Giêsu Kitô loan báo. Việc anh có thể nói được cho phép anh loan báo
cho người khác điều anh đã thấy và đã nghe. Những viễn tượng khác nhau này được
nêu lên trong câu trả lời của những người đã chứng kiến phép lạvà họ rất đỗi ngạc nhiên: “Người làm cho
những kẻ điếc nghe được và những kẻ câm nói được” (câu 37).
Khi suy niệm toàn bộ đoạn Tin Mừng này, tất cả những ai đã
được thanh tẩy trong Đức Kitô được mời gọi nhớ lại rằng họ cũng đã có đôi tai
mở ra để đón nhận Tin Mừng, như người câm điếc được Đức Giêsu chữa lành. Họ
cũng được nhắc nhớ rằng Giáo Hội phải lắng nghe tiếng kêu than của tất cả những
ai đang đau khổ. Được thúc đẩy bởi sự cảm thương, Giáo Hội phải lên tiếng thay
cho những người không có tiếng nói, như chính Thiên Chúa đã lắng nghe những
tiếng kêu than và Ngài đã thấy những đau khổ của Dân Ngài trong Ai-cập (x. Xh
3,7-9), và như Đức Giêsu đã thương xótđối với những ai kêu cầu Người.
Như vậy, đoạn Tin Mừng được đề nghị cho những suy niệm trong
Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô được hiểu trong cả chiều
hướng Thánh Kinh và Thần Học, nhấn mạnh đến việc lắng nghe, đến ngôn ngữ và
đồng thời sự thinh lặng, trong đó vừa tìm kiếm sự hiệp nhất, vừa tìm ra một lời
đáp trả cho những nỗi đau của nhân loại ngày nay. Có hai lời mời gọi gửi đến
Giáo Hội và các tín hữu Kitô:
-Cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô và cùng nhau
xây dựng sự hiệp nhất đó.
-Liên kết tạo sức mạnh để xoa dịu sự đau khổ của đồng loại
Haihình thức trách
nhiệm này liên kết chặt chẽ với nhau. Cả hai đều gắn liền với việc chữa lành
Nhiệm ThểĐức Kitô. Vì vậy bản văn được
chọn lựa cho Tuần cầu nguyện năm 2007 là một tường thuật về chữa lành.
Để hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ cầu nguyện cho sự hiệp
nhất giữa các môn đệ của Đức Kitô, chúng ta hãy tổ chức tuần cầu nguyện từ ngày
18-25 tháng Giêng tại các cộng đoàn Giáo xứ. Những sáng kiến, nỗ lực để đối
thoại với Anh Em Tin Lành ở Việt Nam cũng được đề nghị để xây dựng sự hiệp
nhất. Nếu chúng ta chưa tiến tới sự hiệp nhấttrong lãnh vực thần học, ít ra chúng ta có những cộng tác chung với nhau
để cùng thực thi bác ái và góp phần thăng tiến con người trên Quê Hương Đất Nước
Việt Nam thân yêu.
Giám mục Giuse Vũ Văn
Thiên
Giáo phận Hải Phòng
(Sưu tầm và chuyển ngữ)
Dictionnaire Encyclopedia Universalis, France, 1997
Th. Rey Mermet, CROIRE Tom 3 - Vivre la foi avec concile Vatican II, Droguet et Ardant 1979.
Le
septième Rapport du Groupe Mixte de Travail entre l'Eglise catholique
romaine et le Conseil Oecuménique des Eglises (Texte original anglais.
Traduction du P. Daniel Olivier, aa, pour le Secrétariat du Conseil
Pontifical pour la Promotion de l'Unité des chrétiens) – La Documentation Catholique , N° 2188 (06/09/1998).
Actualité des Religions , No 11 (Décembre 1999).
[1] Tính đến 2011, có 1 tỉ 214 triệu người Công giáo
Trong
bài trước, chúng ta đã đi ngược lại dòng lịch sử để tìm hiểu những
lý do đã đưa các tín đồ của đức Kitô đền chỗ phân rẽ trong 20 thế kỷ
qua. Trong bài hôm nay thì chúng ta quan sát một hiện tượng ngược
lại, đó là lịch sử của những nỗ lực để tái lập sự hiệp nhất.
Chúng
tôi đã có dịp nhắc đến hai công đồng Lyon II (1274) và Firenze
(1439) đã gắng tìm ra những công thức thỏa hiệp giữa Rôma và
Constantinôpôli; nhưng sự hợp nhất không được bền lâu. Vào thời Cải
cách, nhiều cuộc gặp gỡ giữa Lutêrô với Tòa thánh đã diễn ra trước và
trong công đồng Trentô. Hồi triệu tập công đồng Vaticano I, đức Piô
IX đã mời các Giáo hội chính thống đến dự, nhưng thư mời bị gửi trả
lại. Thực ra, thì cho tới đầu thế kỷ 20, Giáo Hội Công giáo hiểu sự
hợp nhất theo nghĩa là các phe phái kia hãy ăn năn trở lại phục tùng
đức Giáo hoàng: đó là hình ảnh lý tưởng của một đàn chiên với một chủ
chiên. Công tác hợp nhất được ủy thác cho bộ Truyền giáo: cơ quan
này phải tìm cách để cho người ngoại giáo lẫn người lạc giáo trở lại
với chính đạo. Dưới viễn ảnh đó, không có chuyện "đối thoại đại kết".
Danh từ này được đặt lên do một phong trào bắt nguồn từ các nhóm Cải
cách. Chúng ta hãy theo dõi lịch sử của nó, trước tiên là ở ngoài Giáo
hội công giáo, và sau đó trong Giáo hội Công giáo.
I. Phong trào đại kết
Tiếng "đại kết" dịch bởi từ ngữ oecumenismus.
Thực ra, thì từ này trong nguyên ngữ Hy lạp và Latinh mang rất
nhiều nghĩa. Trong tiếng Hy lạp, từ "oikouméne" (bởi danh từ "oikos":
nhà) lúc đầu có nghĩa là những vùng đất đã có người cư ngụ (đã xây cất
nhà cửa), rồi dần dần mở rộng ra đến toàn thể thế giới. Cách riêng
hoàng đế Rôma mang tước là "oikumêne", nghĩa là bá chủ khắp thế giới
(chỉ trừ những vùng đất hoang dã của quân man di, barbaroi). Từ đó mà
sinh ra tính từ "oecumenicus" (thí dụ: "concilium oecumenicum": công
đồng do hoàng đế triệu tập, hay là công đồng quy tụ hàng giám mục
thế giới). - Khi phong trào hợp nhất các Kitô hữu ra đời vào thế kỷ
20, người ta muốn lấy lại tiếng "oecumenismus" để biểu lộ niềm khát
khao được thấy Giáo hội mang chiều kích hoàn vũ, vượt qua hết mọi
hình thức phân ly chia rẽ.
Có thể
lấy năm 1910 như khởi điểm của phong trào đại kết cận đại. Vào
năm ấy một Đại Hội của các Hội truyền giáo Tin lành (World Missionary
Conference) được tổ chức Edinburgh, (Scotland). Lý do đưa tới việc
tổ chức Đại hội là thực trạng chua chát của các xứ truyền giáo, khi
mà các giáo đoàn trẻ chất vấn những nhóm thừa sai: "Tại sao các ông
đều rao giảng một đức Kitô như nhau, mà các ông lại chia rẽ thành bao
nhiêu là phe nhóm, nào là metodist, nào là luteranist, nào là
episcopalist? Tại sao các ông vừa mang cho chúng tôi Tin mừng của đức
Kitô mà vừa mang theo các sự phân hóa từ Âu Mỹ sang đây làm gì?" .
Chính vì ý thức rằng sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một chướng ngại
cho việc Truyền giáo, cho nên các Hội Truyền giáo mới quyết định nhóm
họp lại để tìm cách thức giải quyết. Cuộc gặp gỡ giữa các Hội Truyền
giáo đã dần dần đưa tới sự gặp gỡ giữa các Giáo hội dưới danh nghĩa
của Hội đồng quốc tế truyền giáo (International Missionary Council) ra đời năm 1921.
Từ
kinh nghiệm gặp gỡ vừa nói, dần dần nảy ra hai cơ quan khác, biểu lộ
cho hai đường lối để tiến tới sự hiệp nhất: một đàng về đạo lý, một
đàng về hoạt động. Cơ quan thứ nhất mang tên là Faith and Order
(Pháp: Foi et Constitution. "Đức tin và Định chế) chuyên về các vấn
đề đức tin và thể chế của Giáo hội. Họ đã tổ chức hai Hội nghị quốc
tế ở Lausanne (1927) và Edinburgh (1937). Cơ quan thứ hai mang danh
là Life and Work (Pháp: Vie et Action. "Đời sống và Hành
động") được thành hình ngay từ năm 1925 tại Hội nghị Stockholm (Thụy
điển). Phương châm của họ là: "đạo lý năng gây chia rẽ, còn hành động
thì sẽ gây đoàn kết". Vì vậy việc hợp tác vào các công tác phụng sự
xây dựng xã hội sẽ dần dần đưa các giáo hội xích lại với nhau.
Tuy
nhiên sau hội nghị lần thứ hai tại Oxford năm 1937, họ nhận thấy
rằng sự chia rẽ về đạo lý cũng mang theo những chia rẽ về quan điểm
hành động. Do đó mà hai cơ quan đã đồng ý sát nhập lại thành một Tổ
chức mang danh là "Hội đồng thế giới các Giáo hội" (World Council of Churches), với quy chế tạm thời được biểu quyết tại Utrecht năm 1938. (Lưu ý: dựa theo Pháp ngữ, Conseil Oecuménique des Églises
trong tiếng Việt thường hay dịch là "Hội đồng đại kết các Giáo hội",
nhưng có lẽ không chỉnh lắm; có thể đối chiếu với tiếng Tây ban nha Consejo Mundial de las Iglesias).
Tiếc rằng thế chiến thứ hai bùng nổ, cho nên phải chờ tới năm 1948
thì mới có thể triệu tập Đại hội đầu tiên tại Amsterdam (Hòa lan) từ
ngày 22/8 tới 4/9. Tiêu chuẩn đạo lý căn bản để gia nhập Hội đồng là
chấp nhận đức Kitô là Chúa Cứu thế.
Phải
chờ tới năm 1961, Đại hội New Delhi mới hoàn chỉnh công thức phát
biểu đạo lý căn bản như sau: "Hội đồng thế giới các Giáo hội là một
hội nghị của các Giáo hội tuyên xưng đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và
là Đấng Cứu thế theo Kinh thánh; do đó họ nỗ lực thể hiện ơn gọi
chung hầu làm vinh danh Thiên Chúa duy nhất, Cha, Con và Thánh Thần".
Đúng ra đây không phải là một tín biểu mới, nhưng chỉ muốn đặt ra
một cơ sở tối thiểu cho các cuộc đối thoại giữa các thành viên. Thực
vậy, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, không thiếu lần có những
nhóm tự xưng là Kitô hữu nhưng lại không chấp nhận thiên tính của đức
Kitô hoặc không chấp nhận tín điều Chúa Ba Ngôi. Hội đồng thế giới
các Giáo hội không phải là một thứ siêu Giáo hội, cũng chẳng phải là
Giáo hội duy nhất mà phong trào đại kết mong đạt đến. Tổ chức này chỉ là
nơi để các Giáo hội đến gặp gỡ học hỏi lẫn nhau, và tương trợ nhau
trong sứ mạng truyền giáo. Trụ sở của Hội đồng đặt tại Genève.
Từ
ngày thành lập tại Amsterdam năm 1948 đến nay, Hội đồng đã tổ chức
các Đại hội sau đây: Evanston (1954), New Delhi (1961), Uppsala
(1968), Nairobi (1975), Vancouver (1983) Canberra (1991). Đại hội lần
tới được dự trù sẽ họp vào năm 1998 tại Harare (Zimbabwe).
Hiện
nay có tới hơn 300 Giáo Hội đã làm thành viên của Hội đồng, trong đó
có cả các Giáo hội chính thống. Giáo hội Công giáo không gia nhập
Hội đồng, vì quan điểm khác nhau về Giáo hội học. Tuy nhiên, từ năm
1961, Giáo hội Công giáo gửi quan sát viên tham dự các Đại hội, và
nhất là từ năm 1965 đã thành lập một nhóm làm việc chung với Hội
đồng. Ngoài ra, Giáo hội Công giáo còn cử 12 đại biểu làm thành viên
chính thức của Ủy ban "Đức Tin và Định chế". Như đã nói trên đây, vai
trò của ủy ban này là nghiên cứu những khía cạnh thần học nhằm tiến
tới sự hợp nhất các Kitô hữu. Theo quan điểm của ủy ban, sự hợp nhất
các Kitô hữu có nghĩa là sự thông hiệp trong đức tin, trong đời sống
làm chứng tá Phúc âm và trong sứ mạng truyền giáo. Để tiến tới sự
hiệp nhất đó, càn phải qua 3 chặng sau đây:
1/ Cùng nhau tuyên xưng một đức tin tông truyền;
2/
Nhìn nhận nơi các Giáo hội cùng có chung những yếu tố tông truyền,
đặc biệt là bí tích rửa tội, Thánh thể và các tác vụ;
3/
Thiết lập những cơ chế chung nhằm bảo đảm việc chung nhau làm chứng
tá, cũng như những cơ quan có thẩm quyền quyết định đường lối hành
động và giảng dạy.
Chặng thứ nhất
được đánh dấu với văn kiện "Tuyên xưng một niềm tin" (Confessing the
One Faith) được hoàn chỉnh vào năm 1993 trong phiên họp tại Santiago
de Compostela. Chặng thứ hai được tiến hành với việc tham khảo lược
đồ mang tên "Rửa tội - Thánh thể - Tác vụ" (Baptism, Eucharist,
Ministry, gọi tắt bằng 3 chữ đầu là BEM, soạn tại Lima năm 1982).
II. Giáo hội công giáo với Phong trào đại kết
Trong
số các nhân vật mở đường cho phong trào đại kết về phía công giáo,
ta có thể đến Hồng y John Henry Newman (1801-90) hồi cuối thế kỷ
19. Khi còn là phần tử của Giáo hội Anh quốc, cha Newman đã mở những
cuộc hội thảo để xích lại gần Giáo hội công giáo. Ý nguyện đó vẫn
tiếp tục sau khi cha gia nhập công giáo. Sang thế kỷ 20, vào những
năm 1921-26, tại Malines đã có những cuộc đối thoại giữa Lord
Halifax, một giáo dân Anh giáo với linh mục Portal người Pháp, dưới sự
điều động của Hồng y Mercier.
Năm
1925, cha Lambert Beauduin (1873-1960) thành lập đan viện Biển đức
tại Chevretogne và năm 1926, cha C.J. Dumont mở trung tâm "Istina"
hướng tới việc học hỏi và đối thoại với các Giáo hội Đông phương. Năm
1933, cha Paul Couturier (1881-1953) đã mở trung tâm công giáo đại
kết ở Lyon, cổ động việc cầu nguyện cho các Kito hữu được hợp nhất.
Năm 1937, cha Yves Congar (1904-95) xuất bản quyển sách Chrétiens désunis. Principes d'un "oecuménisme catholique", một tác phẩm thần học công giáo đầu tiên về đại kết.
Thế nhưng đó chỉ là những sáng kiến cá nhân. Tòa thánh tỏ ra dè dặt đối với phong trào đại kết: thông điệp Mortalium animos của đức Piô XI (6/1/1928) chấp nhận một đường lối hợp nhất duy nhất là các nhóm ly khai phải trở về với Giáo hội công giáo.
Dưới thời đức Piô XII, huấn thị De motione ecumenica của Bộ Thánh vụ (20/12/1949) hé mở cho người công giáo được phép tham gia vào các hội nghị đại kết với một số điều kiện.
Phải
chờ tới khi đức Gioan XXIII đắc cử Giáo hoàng thì lập trường của Tòa
thánh mới thay đổi. Sau khi loan báo triệu tập công đồng Vaticano
II, vào ngày lễ Hiện xuống năm 1960 (5/6), ngài đã cho thành lập Văn
phòng cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu do đức Hồng y Augustinô Bea
(1881-1968) làm chủ tịch. Việc đối thoại đại kết trở thành một điểm
then chốt trong chương trình của công đồng.
Trong ngày Truyền Tin, Đức Maria được Tổng Thần Gabrien chào: “Mừng vui
lên, hỡi Đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng bà” (Luca 1:28). Một lời chào đã
khiến Mẹ phải sửng sốt, bởi vì thiên sứ đã không chào hỏi bằng tên của Mẹ. Thay
vì gọi là Maria, ngài đã gọi Mẹ là “Đấng đầy ân phúc”. Sau này, khi đi thăm bà
chị họ, bà Isave cũng ca tụng Đức Maria rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người
phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được
Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Luca 1: 42-43). Trong bài ca “Ngợi
Khen” (Magnificat), chính Đức Maria cũng không dấu diếm hồng ân mà Thiên Chúa
đã ban cho Mẹ:
“Linh
hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”. (Luca 1: 46-50)
Một trong những điều cao cả ấy là Ngài đã gìn giữ Đức Maria khỏi mắc
Tội Tổ Tông ngay từ khi hoài thai trong lòng thân mẫu Anna.
Đức Maria không mắc tội, điều này có thể được suy ra từ lời chào
“đầy ân phúc” của Tổng Thần Gabrien. Đối với nhiều tác giả Kinh
Thánh, nếu Đức Maria đã tràn đầy tình thân với Thiên Chúa thì
không thể nào phạm tội gì được. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin, Lễ Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên tội, 8 tháng 12 năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã suy niệm rằng:
“Nếu Maria một cách hoàn toàn được Thiên Chúa bảo vệ, thì trong Mẹ không có chỗ
cho tội lỗi… Mẹ được tạo dựng vô nhiễm để bằng một cách đón nhận hoàn toàn với
tiếng ‘xin vâng’, Thiên Chúa đã đến trong thế giới.”
Đối với Thánh Augustinôthì,
chúng ta phải loại trừ mọi tội lỗi cá nhân ra khỏi Đức
Maria “vì chính danh dự của Thiên Chúa”. Giáo Hội cũng nhận định
rằng, Đức Maria được “đầy ơn phúc”, cũng có nghĩa là Mẹ được cứu chuộc ngay từ
đầu của giây phút thụ thai trong lòng thân mẫu. Và điều này là chính phần cốt
lõi của tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria.
TÍN
ĐIỀU VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Theo thần học Thánh Mẫu, Giáo Hội đã tuyên tín 4 điều về Đức Maria: Mẹ
Thiên Chúa, Đầu Thai Vô Nhiễm Tội, Trọn Đời Đồng Trinh, và Hồn Xác Lên
Trời. Tín Điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội do Đức Giáo Hoàng Piô IXcông
bố năm 1854.
Và dựa vào Giáo Lý Công Giáo thì: “Đức Trinh
Nữ Diễm Phúc Maria, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc thụ
thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công
nghiệp của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ loài người.” (DS 2803)
Các Giáo Phụ Đông Phương đã gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng
Rất Thánh (Panaghia), và tôn vinh Mẹ là “Đấng không hề vương nhiễm
một tội nào, như một thụ tạo mới do Chúa Thánh Thần nắn đúc và tác
tạo” (x. LG 56). Nhờ ân sủng Thiên Chúa, Đức Maria suốt đời vẫn tinh tuyền
không hề phạm tội riêng nào.[1]
Đặc biệt là Giáo Hội Hy Lạp. Các Giáo Phụ Hy Lạp đã không bao giờ chính
thức hoặc ai đó thảo luận, tranh biện về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức
Maria.
Các Ngài đã xưng tụng và ca ngợi đặc ân ấy bằng những từ ngữ hết sức
kính trọng như Mẹ là nhà tạm, nơi cư ngụ xứng cho Đức Kitô. Mẹ trinh trong
không tỳ vết, hoàn toàn thánh thiện, công chính vẹn toàn, không bao giờ vương
mắc vào nọc độc của con rắn, và cũng không bị hơi độc của nói thổi vào.[2]
Bốn năm sau ngày tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được tuyên tín, chính Đức
Mẹ đã hiện ra với Bernadetta tại Lộ Đức ngày 25 tháng 3 năm 1858 và xác nhận:
“Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”
ĐỨC
MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Nguyên Tội là tội do hai ông bà nguyên tổ Adong và Evà đã truyền lại
cho con cháu. Riêng đối với Đức Maria vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng
Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa dành cho Người đặc ân vô cùng quí giá là không
mang vết nhơ Nguyên Tội ngay từ giây phút hoài thai trong lòng thân mẫu. Mẹ
được như vậy là nhờ vào công nghiệp của Chúa Giêsu Con Mẹ sẽ sinh ra sau
này.
Không một giây, một phút nào trong đời sống Đức Mẹ từ lúc thụ thai cho
đến khi từ giã cõi đời và được rước lên trời cả hồn lẫn xác, Mẹ đã phải khuất
phục ma quỉ trong tình trạng tội lỗi. Được tràn đầy ơn Chúa như lời chào của sứ
thần Gabriel, cùng nghĩa Mẹ luôn luôn có Chúa ở cùng nên trọn đời Mẹ thuộc về
Chúa. Đặc ân này đã trang bị cho Mẹ để Mẹ xứng đáng mang thai Con Thiên Chúa,
làm Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể.
Mặc dù hoàn toàn đầy ơn phúc, Mẹ vẫn không được miễn trừ đau khổ trong
cuộc đời mình. Thay vào đó, Mẹ để Thiên Chúa hướng dẫn và đáp lại trong mọi
hoàn cảnh bằng sự tín thác nơi Ngài.
Nhờ được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ luôn luôn lúc nào cũng hoàn hảo
nhất, đẹp xinh nhất, luôn trong trắng, tươi xinh, không một vết tì ố nào có thể
làm ô nhiễm tâm hồn Mẹ. Linh mục nhạc sỹ Kim Long đã cảm thán sự trinh trong vô
nhiễm của Mẹ qua những lời ngợi ca rất tuyệt vời:
ĐK. Mẹ tuyệt mỹ không hề vấn vương tội tình, diễm lệ
như ánh bình minh. Mẹ hoàn toàn trong sạch tinh khiết như muôn hoa tươi xinh.
1. Mẹ là vườn khép kín, là mạch suối niêm phong. Mẹ là hoa thủy tiên thắm xinh
muôn màu muôn hương.
2. Mẹ tràn đầy thánh đức hồn trinh trắng cao quang. Mẹ là bông huệ tươi
điểm tô vương tòa Thiên cung.
3. Triều thần cùng cất tiếng tụng ca Đức Trinh Vương. Trần hoàn chung lời ca
tán dương muôn đời muôn phương.
4. Mẹ là nguồn ánh sáng hằng soi dẫn muôn dân. Tìm về quê bình an sống vui
trong niềm hân hoan.
(Mẹ Tuyệt Mỹ. Lm. Kim Long)
Ngay từ những thế kỷ đầu Kitô giáo, các tin hữu đã tin Đức Maria được
ơn Vô nhiễm nguyên tội, nghĩa là Mẹ không bị vướng mắc vào một tội lỗi nào từ
giây phút đầu thụ thai trong lòng mẹ. Nói một cách khác, Đức Maria được sinh ra
trong tình trạng không mắc tội tổ tông, và giữ được tình trạng vô tội đó suốt
cả cuộc đời của mình.
Giáo huấn của Giáo hội về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ đã
dựa trên nền tảng Thánh Kinh được tìm thấy trong Sáng Thế Ký, khi Thiên Chúa
nói với Satan: “Ta sẽ đặt một mối
thù giữa mi và người nữ, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người nữ. Người sẽ
đạp nát đầu mi, và mi sẽ rình cắn gót chân người.”(Sáng Thế 3:15) Mối
hận thù này cho thấy cả hai bên không hề có sự thương lượng, nhượng bộ hay thỏa
hiệp. Hơn nữa kẻ thù còn bị đạp nát đầu, mà chỉ rình cắn gót chân người đạp.
Người nữ đây là hình ảnh của Đức Maria và dòng dõi người nữ ấy chính là
Đức Giêsu. Satan là kẻ thù. Nó và dòng dõi của nó luôn luôn lúc nào cũng gieo
mầm nọc độc là tội lỗi. Lôi kéo và cám dỗ con người xa Chúa, nhưng nọc độc của
nó không hề động chạm đến gót chân của Đức Maria.
Và trong Tân Ước, qua trích đoạn Tin Mừng ngày lễ kính Mẹ Vô Nhiễm,
Thánh Luca đã dẫn lời Tổng Thần Gabriel nói với Đức Maria: “Hãy vui mừng vì cô được Chúa trời chúc
phúc. Thiên Chúa ở cùng cô và cô có phúc hơn mọi người phụ nữ”(Luca 1:26-28).Với
đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, tràn đầy ơn Chúa, luôn luôn có Chúa ở cùng, Đức
Maria phải được coi là người phụ nữ đặc biệt, vượt trên và cao trọng hơn hết
mọi phụ nữ. Chính Mẹ, Người tuy rất mực khiêm tốn chỉ coi mình như nữ tỳ hèn
mọn Thiên Chúa cũng đã thốt lên trong lời Ngơi Khen của mình: “Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm
phúc.”
“Lạy Mẹ Maria, thiên hạ đã nói về Mẹ bao nhiêu điều vinh hiển, vì từ nơi Mẹ
mặt trời công chính đã mọc lên, là Đức Kitô Thiên Chúa chúng con.”[4]
Và Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã chỉ cho nhân loại hãy nhìn lên Ngôi
Sao Vô Nhiễm của Mẹ trên bầu trời Mùa Vọng như biểu hiện cho ngôi sao sẽ xuất
hiện ở Phương Đông dẫn lối Ba Vua và muôn dân tìm gặp Đấng Cứu Thế Hạ Sinh tại
Belem: “Ngôi Sao Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội chiếu sáng con đường Mùa Vọng. Ai
tỏa sáng được như Mẹ? Mẹ là Ngôi Sao Hy Vọng, là Bình Minh của Ngày Cứu
Chuộc.”
----------------------------------------
Trần Mỹ Duyệt
Tài liệu trích dẫn:
1. Bản dịch của Tổng Giáo
phận Sài Gòn năm 1993. Giáo Lý Hội Thánh Công giáo.