Thursday, March 28, 2024

TÌM HIỂU - Phong trào ĐẠI KẾT gì?



Phong trào Đại Kết được phát sinh từ các Giáo hội Tin Lành, nhằm nỗ lực liên kết, hiệp thông từ hơn nửa thế kỷ nay giữa các Kitô hữu thuộc các Giáo hội Tin lành, Công giáo, Chính Thống giáo - nhằm cổ vũ sự thống nhất đức tin và hiệp thông giữa các cộng đồng Kitô giáo bị chia rẽ.

Ý nghĩa từ Đại Kết

Tiếng "Đại Kết" dịch bởi từ "oecumenismus". Thực ra thì từ này trong nguyên ngữ tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh mang rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Hy Lạp, từ "oikouméne" (bởi danh từ "oikos": nhà) lúc đầu có nghĩa là những vùng đất đã có người cư ngụ (đã xây cất nhà cửa), rồi dần dần mở rộng ra đến toàn thể thế giới. Cách riêng hoàng đế Rôma mang tước là "oikumêne", nghĩa là bá chủ khắp thế giới (chỉ trừ những vùng đất hoang dã của quân man di, barbaroi). Từ đó mà sinh ra tính từ "oecumenicus" (thí dụ: "concilium oecumenicum": công đồng do hoàng đế triệu tập, hay là công đồng quy tụ hàng Giám mục thế giới). - Khi phong trào hợp nhất các Kitô hữu ra đời vào thế kỷ 20, người ta muốn lấy lại tiếng "oecumenismus" để biểu lộ niềm khát khao được thấy Giáo hội mang chiều kích hoàn vũ, vượt qua hết mọi hình thức phân ly chia rẽ.

Lịch sử hình thành

Có thể lấy năm 1910 như khởi điểm của phong trào Đại Kết. Vào năm ấy một Đại Hội của các Hội truyền giáo Tin lành (World Missionary Conference) được tổ chức ở Edinburgh, (Scotland). Lý do đưa tới việc tổ chức Đại hội là thực trạng chua chát của các xứ truyền giáo, khi mà các giáo đoàn trẻ chất vấn những nhóm thừa sai: "Tại sao các ông đều rao giảng một đức Kitô như nhau, mà các ông lại chia rẽ thành bao nhiêu là phe nhóm, nào là Metodist, nào là Luteranist, nào là Episcopalist? Tại sao các ông vừa mang cho chúng tôi Tin Mừng của Đức Kitô mà vừa mang theo các sự phân hóa từ Âu Mỹ sang đây làm gì?". Chính vì ý thức rằng sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một chướng ngại cho việc truyền giáo, cho nên các Hội Truyền giáo mới quyết định nhóm họp lại để tìm cách thức giải quyết. Cuộc gặp gỡ giữa các Hội Truyền giáo đã dần dần đưa tới sự gặp gỡ giữa các Giáo hội dưới danh nghĩa của Hội đồng quốc tế truyền giáo (International Missionary Council) ra đời năm 1921.

Từ kinh nghiệm gặp gỡ trên, dần dần nảy ra hai cơ quan khác, biểu lộ cho hai đường lối để tiến tới sự hiệp nhất: một đàng về đạo lý, một đàng về hoạt động. Cơ quan thứ nhất mang tên là "Faith and Order" (tiếng Pháp: "Foi et Constitution" nghĩa là "Đức tin và Định chế) chuyên về các vấn đề đức tin và thể chế của Giáo hội. Họ đã tổ chức hai Hội nghị quốc tế ở Lausanne (1927) và Edinburgh (1937). Cơ quan thứ hai mang danh là "Life and Work" (tiếng Pháp: "Vie et Action" nghĩa là "Đời sống và Hành động") được thành hình ngay từ năm 1925 tại Hội nghị Stockholm (Thụy Điển). Phương châm của họ là: "đạo lý năng gây chia rẽ, còn hành động thì sẽ gây đoàn kết". Vì vậy việc hợp tác vào các công tác phụng sự xây dựng xã hội sẽ dần dần đưa các giáo hội xích lại với nhau.

Tuy nhiên sau hội nghị lần thứ hai tại Oxford năm 1937, họ nhận thấy rằng sự chia rẽ về đạo lý cũng mang theo những chia rẽ về quan điểm hành động. Do đó mà hai cơ quan đã đồng ý sát nhập lại thành một Tổ chức mang danh là "Hội đồng thế giới các Giáo hội" (World Council of Churches), với quy chế tạm thời được biểu quyết tại Utrecht năm 1938. (Lưu ý: dựa theo Pháp ngữ, Conseil Oecuménique des Églises trong tiếng Việt thường hay dịch là "Hội đồng đại kết các Giáo hội", nhưng có lẽ không chỉnh lắm; có thể đối chiếu với tiếng Tây Ban Nha Consejo Mundial de las Iglesias). Tiếc rằng thế chiến thứ hai bùng nổ, cho nên phải chờ tới năm 1948 thì mới có thể triệu tập Đại hội đầu tiên tại Amsterdam (Hà Lan) từ ngày 22 tháng 8 tới ngày 4 tháng 9. Tiêu chuẩn đạo lý căn bản để gia nhập Hội đồng là chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế.

Phải chờ tới năm 1961, Đại hội New Delhi mới hoàn chỉnh công thức phát biểu đạo lý căn bản như sau: "Hội đồng thế giới các Giáo hội là một hội nghị của các Giáo hội tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế theo Kinh Thánh; do đó họ nỗ lực thể hiện ơn gọi chung hầu làm vinh danh Thiên Chúa duy nhất nhưng Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Đúng ra, đây không phải là một tín biểu mới, nhưng chỉ muốn đặt ra một cơ sở tối thiểu cho các cuộc đối thoại giữa các thành viên. Thực vậy, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, không thiếu lần có những nhóm tự xưng là Kitô hữu nhưng lại không chấp nhận thiên tính của đức Kitô hoặc không chấp nhận tín điều Chúa Ba Ngôi. Hội đồng thế giới các Giáo hội không phải là một thứ siêu Giáo hội, cũng chẳng phải là Giáo hội duy nhất mà phong trào đại kết mong đạt đến. Tổ chức này chỉ là nơi để các Giáo hội đến gặp gỡ học hỏi lẫn nhau, và tương trợ nhau trong sứ mạng truyền giáo. Trụ sở của Hội đồng đặt tại Genève.

Từ ngày thành lập tại Amsterdam năm 1948 đến nay, Hội đồng đã tổ chức các Đại hội sau đây: Evanston (1954), New Delhi (1961), Uppsala (1968), Nairobi (1975), Vancouver (1983) Canberra (1991). Đại hội lần tới được dự trù sẽ họp vào năm 1998 tại Harare (Zimbabwe).

Hiện nay có tới hơn 300 Giáo Hội đã làm thành viên của Hội đồng, trong đó có cả các Giáo hội chính thống. Giáo hội Công giáo không gia nhập Hội đồng, vì quan điểm khác nhau về Giáo hội học. Tuy nhiên, từ năm 1961, Giáo hội Công giáo gửi quan sát viên tham dự các Đại hội, và nhất là từ năm 1965 đã thành lập một nhóm làm việc chung với Hội đồng. Ngoài ra, Giáo hội Công giáo còn cử 12 đại biểu làm thành viên chính thức của Ủy ban "Đức Tin và Định chế". Như đã nói trên đây, vai trò của ủy ban này là nghiên cứu những khía cạnh thần học nhằm tiến tới sự hợp nhất các Kitô hữu. Theo quan điểm của ủy ban, sự hợp nhất các Kitô hữu có nghĩa là sự thông hiệp trong đức tin, trong đời sống làm chứng tá Phúc âm và trong sứ mạng truyền giáo. Để tiến tới sự hiệp nhất đó, càn phải qua 3 chặng sau đây:

1.Cùng nhau tuyên xưng một đức tin tông truyền;
2.Nhìn nhận nơi các Giáo hội cùng có chung những yếu tố tông truyền, đặc biệt là bí tích rửa tội, Thánh thể và các tác vụ;
3.Thiết lập những cơ chế chung nhằm bảo đảm việc chung nhau làm chứng tá, cũng như những cơ quan có thẩm quyền quyết định đường lối hành động và giảng dạy.

Chặng thứ nhất được đánh dấu với văn kiện "Tuyên xưng Một Đức Tin" (Confessing the One Faith) được hoàn chỉnh vào năm 1993 trong phiên họp tại Santiago de Compostela. Chặng thứ hai được tiến hành với việc tham khảo lược đồ mang tên "Rửa tội - Thánh thể - Tác vụ" (Baptism, Eucharist, Ministry, gọi tắt bằng 3 chữ đầu là BEM, soạn tại Lima năm 1982).

Sự tiến triển của Phong trào Đại kết được đánh dấu qua những biến cố quan trọng sau đây:

Thiết lập Hội đồng các Hiệp Hội Truyền giáo, tại Edimbourg, năm 1910.

Từ năm 1935, linh mục Paul Couturier đã có nhiều hoạt động nhằm cổ vũ cho Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.

Thiết lập Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội (C.O.E) năm 1948, tại Amsterdam (Hà Lan) thành viên lúc đó gồm 147 tổ chức Giáo Hội (đến nay là trên 300 thành viên) thuộc các Giáo hội Anh Giáo, Tin Lành và Chính Thống giáo Đông phương. Từ năm 1961, Giáo hội Công giáo Rôma chính thức là quan sát viên của Hội Đồng này.

Về phía Giáo hội Công giáo Rôma, năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô, có sứ mạng xây dựng mối liên lạc đại kết với các Giáo Hội ngoài Công Giáo.

Công đồng Vatican II từ năm 1962 đến 1965. Nhiều tài liệu đã được soạn thảo do các Uỷ ban hỗn hợp về đối thoại, góp phần thăng tiến sự hiệp nhất giữa các Giáo Hội, như những dấu chỉ của niềm hy vọng vào sự hiệp thông trọn vẹn trong tương lai. Đặc biệt phải kể đến Sắc lệnh Unitatis Redintegratio (1964). Tinh thần đại kết cũng được nhấn mạnh trong các văn kiện khác của Công đồng: Hiến Chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), Hiến Chế tín lý về Mặc khải của Thiên Chúa (Dei Verbum), Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo…

Một văn bản quan trọng đã được ký kết giữa hai Giáo hội Công giáo Rôma và Tin Lành có nội dung liên quan đến giáo lý chung về ơn công chính hóa bởi ân sủng, qua đức tin như phương tiện (vấn đề này đã gây nên nhiều tranh cãi và dẫn đến cuộc Cải cách ở thế kỷ 16). Liên đoàn quốc tế Giáo hội Luther (F.L.M) và Giáo Hội Công giáo đã cùng ký văn bản này tại Augsbourg ngày 30 tháng 10 năm 1999. Trong khối Pháp ngữ, với sự cộng tác của các chuyên viên các Giáo hội Kitô, bản dịch kinh Lạy Cha đã được thực hiện năm 1966 (được dùng trong Phụng vụ hiện nay tại các nước thuộc khối Pháp ngữ) và bản dịch Kinh Thánh Đại kết (TOB) đã thực hiện năm 1972.

Ngoài ra còn có những cuộc gặp gỡ lịch sử mở ra những bước tiến mới trong tinh thần Đại Kết: cuộc gặp gỡ giữa Giáo hoàng Phaolô VI và Thượng phụ Constantinopolis Athenagoras tại Jerusalem năm 1964; Cuộc viếng thăm của Giáo hoàng Phaolô VI tại Tòa Thượng Phụ Constantinopolis năm 1967, rồi tại Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội tại Genève năm 1969. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nối bước các Vị Tiền Nhiệm khi đến thăm Tòa Tổng Giám mục Giáo Hội Anh Giáo Canterbury 1982 và nhiều cuộc gặp gỡ với các vị lãnh đạo cấp cao của các Giáo Hội Kitô khác.

Những cố gắng tiến tới Đại kết còn thể hiện qua những nghiên cứu chung về Thần học và Thánh Kinh, những buổi hội thảo và nhiều dịp gặp gỡ quan trọng khác trong các lãnh vực quốc tế, khu vực và quốc gia.

Qua Tông huấn Pastor Bonus ký ngày 28 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đổi tên “Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô” thành “ Hội đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu” (CPPUC). Danh xưng mới này chính thức được sử dụng từ ngày 1 tháng 3 năm 1989.

Phong trào Đại Kết nhằm thực hiện lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “xin cho họ nên một (…) để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21). Phong trào này đề nghị nhiều phương pháp khác nhau: cầu nguyện, kiên nhẫn, cộng tác và can đảm làm việc. Giáo hoàng Phaolô VI đã nhận định Phong trào Đại kết “là một sứ mạng huyền nhiệm và quan trọng nhất trong triều đại Giáo Hoàng của Ngài”, và Giáo hoàng Gioan Phaolô II luôn luôn nhắc lại rằng đó là một trách nhiệm không thể thoái thác và dửng dưng được.

Giáo hội Công giáo Rôma với Phong trào Đại Kết

Trong số các nhân vật mở đường cho phong trào đại kết về phía Công giáo, ta có thể đến Hồng y John Henry Newman (1801-90) hồi cuối thế kỷ 19. Khi còn là phần tử của Giáo hội Anh quốc, cha Newman đã mở những cuộc hội thảo để xích lại gần Giáo hội Công giáo Rôma. Ý nguyện đó vẫn tiếp tục sau khi cha gia nhập Công giáo. Sang thế kỷ 20, vào những năm 1921-1926, tại Malines đã có những cuộc đối thoại giữa Lord Halifax, một giáo dân Anh giáo với linh mục Portal người Pháp, dưới sự điều động của Hồng y Mercier.

Năm 1925, Linh mục Lambert Beauduin (1873-1960) thành lập đan viện Biển Đức tại Chevretogne và năm 1926, Linh mục C.J. Dumont mở trung tâm "Istina" hướng tới việc học hỏi và đối thoại với các Giáo hội Đông phương. Năm 1933, Linh mục Paul Couturier (1881-1953) đã mở trung tâm Công giáo đại kết ở Lyon, cổ động việc cầu nguyện cho các Kitô hữu được hợp nhất. Năm 1937, Linh mục Yves Congar (1904-1995) xuất bản quyển sách Chrétiens désunis. Principes d'un "oecuménisme catholique", một tác phẩm Thần học Công giáo đầu tiên về Đại Kết. 



Thế nhưng đó chỉ là những sáng kiến cá nhân. Tòa Thánh tỏ ra dè dặt đối với phong trào Đại Kết: thông điệp Mortalium animos của Giáo hoàng Piô XI (ngày 6 tháng 1 năm 1928) chấp nhận một đường lối hợp nhất duy nhất là các nhóm ly khai phải trở về với Giáo hội Công giáo Rôma.

Dưới thời Giáo hoàng Piô XII, huấn thị De motione ecumenica của Bộ Thánh vụ (ngày 20 tháng 12 năm 1949) hé mở cho người Công giáo được phép tham gia vào các hội nghị Đại Kết với một số điều kiện.

Phải chờ tới khi Giáo hoàng Gioan XXIII đắc cử Giáo hoàng thì lập trường của Tòa Thánh mới thay đổi. Sau khi loan báo triệu tập Công đồng Vatican II, vào ngày Lễ Hiện xuống năm 1960 (ngày 5 tháng 6), ngài đã cho thành lập Văn phòng cổ vũ sự hợp nhất các Kitô hữu do đức Hồng y Augustinô Bea (1881-1968) làm chủ tịch. Việc đối thoại đại kết trở thành một điểm then chốt trong chương trình của công đồng.
--------------------------
Source: wikipedia.org

 

Lược sử Phong trào Đại kết giữa các Giáo hội Kitô

I. NHIỆM THỂ CHÚA KITÔ BỊ XÂU XÉ

Theo Niên giám thống kê của Giáo Hội Công giáo 1997, số người tin vào Chúa Kitô trên toàn thế giới là 1.994.754.000 người. Trong thành phần Kitô hữu này, có 1.005.254.000 công giáo[1], 989.500.000 tín hữu thuộc các Giáo Hội anh em như Chính Thống (khoảng 15 giáo hội đông phương), Tin Lành (luthéranisme, calvinisme, méthodisme, congrégationnalistes, presbytérianisme… cùng hàng trăm giáo hội khác) và Anh giáo.

Số liệu trên một mặt chứng tỏ sự phát triển liên tục của Kitô giáo suốt 20 thế kỷ qua: từ một nhóm nhỏ mười hai tông đồ tại Palestine lên đến gần 1/3 nhân loại trên toàn cầu. Nhưng mặt khác cũng bộc lộ sự phân hóa giữa những môn đệ của Chúa Kitô. Trong 10 thế kỷ đầu, không phải là không có vấn đề xung đột nội bộ, lạc giáo nhưng không có sự chia tay nghiêm trọng chính thức của một đa số Kitô hữu như thế. Sự phân ly trầm trọng này bắt đầu từ thế kỷ XI với anh em Chính Thống giáo Đông phương (1054), sau một cuộc xung đột kéo dài giữa Constantinople (trung tâm của một Kitô giáo mang nhiều đặc tính huyền nhiệm, chiêm niệm và thi vị) và Roma (biểu trưng cho một Kitô giới mang đậm sắc thái pháp lý, hoạt động và chính trị. Từ đó, người ta phân biệt Giáo Hội Tây phương, với thủ lãnh thiêng liêng là Đức Giáo hoàng, Giám mục Roma và 4 tòa Thượng Phụ Giáo chủ Đông phương: Constantinople, Alexandrie, Antioche và Jérusalem.

Sang thế kỷ XVI, là cuộc đại ly giáo với anh em Tin Lành: sắc chỉ Exurge Domine (15.06.1520) của Đức Giáo hoàng Lêô X lên án các lập trường của Luther. Cuộc chia tay với Anh giáo diễn ra năm 1534 mà tác nhân lịch sử là vua Henri VIII. Quốc hội Anh ban hành luật Quyền tối thượng: “Nhà vua là người lãnh đạo giáo hội Anh, có quyền thẩm phán các vấn đề thuộc linh, có quyền phong chức các phẩm trật, Tất cả tài sản của Giáo Hội Anh đều thuộc về nhà vua.”

Không chỉ xa rời nhau mà thôi, bi thảm hơn, đã có lúc những người con cùng một Cha trên trời này trở nên kẻ thù và sát hại lẫn nhau. Chẳng hạn như những cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa anh em Kitô hữu với nhau tại Đức, Pays-Bas, Bohême. Ở Pháp, từ 1562-1598, người ta tính có đến 8 cuộc “chiến tranh tôn giáo” giữa Công giáo và Tin Lành, với cuộc thảm sát tại Saint-Barthélemy gây tử vong cho 30.000 người, sang thế kỷ XVII lại thêm cuộc chiến kéo dài 30 năm (1618-1648). Tất nhiên, tham vọng hay quyền lợi chính trị của một số cá nhân cũng đan xen vào các nguyên do tôn giáo làm phát sinh các cuộc chiến tranh này ; nhưng phải nhìn nhận rằng viện cớ “Chống Cải Cách”, một số người Công giáo thời bấy giờ đã tìm cách triệt hạ Tin Lành bằng mọi phương tiện.

Giữa những tín hữu Công giáo và Tin Lành Việt Nam nói chung, thì chưa đến nỗi đổ máu như thế, nhưng thường chỉ dừng ở hiện tượng “khẩu chiến” mà thôi. Tuy nhiên, nếu như không có thái độ thù nghịch thì cũng khá dửng dưng, xa cách hay không có thiện cảm đối với nhau. Một trắc nghiệm nhỏ để xem ta có sống tương hợp với Tin Mừng chưa: Phản ứng của ta thế nào khi nghe anh em Tin Lành đề cập đến việc xưng hô với linh mục hay thờ kính ảnh tượng trong nhà thờ? Thái độ của tôi ra sao đối với vài anh chị em rời cộng đồng Công giáo mà gia nhập giáo hội Tin Lành?

Gần 2 tỷ người cùng công nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng họ lại thường tranh luận với nhau về chính Người; loan báo cùng một Tin Mừng, nhưng đôi khi lại chống báng lẫn nhau. Cùng tuyên xưng một kinh Tin Kính các Tông đồ, nhưng trong những đền thờ khác nhau. Cùng được thánh tẩy bởi một Phép Rửa, nhưng lại đối kháng với những Giáo Hội khác mình. Những thái độ phi Tin mừng kể trên là một sự chà đạp ước muốn và ý nguyện của Thầy Chí Thánh: “Xin cho tất cả nên một”. (Ga 17, 21). Một lầm lỗi chung nhưng người của mỗi bên đều thản nhiên “rửa tay” với cùng một ý thức: “Đó là lỗi của người khác”. Đó không chỉ là một sự phản bội đối với Đức Kitô và mà còn đối với những người nghèo đang tìm kiếm ánh sáng chân lý. Ngoài ra, sự chia rẽ giữa anh em Kitô hữu là một “scandale” đối với thế giới và cản trở công cuộc Phúc Âm hóa. Dưới sự tác động của Thánh Thần hòa giải, các Kitô hữu không thể làm ngơ trước sự phân hóa này, nếu muốn làm môn đệ trung thành với Đức Kitô.

II. TRỞ VỀ VỚI Ý NGUYỆN CỦA ĐỨC KITÔ

1. Những tông đồ của đối thoại đại kết

Linh mục Portal, Lord Halifax cùng Hồng y Mercier đã tổ chức các cuộc trao đổi tại Melines (Bỉ) từ 1921-1925, nhằm đối thoại với Giáo Hội Anh giáo. Năm 1925, Dom Lambert Beauduin thành lập Tu viện Hiệp nhất (Prieuré de l’Unité) ở Chevetogne thuộc nước Bỉ. Tại Pháp, nhờ sự thúc đẩy của cha Couturier, “đại tông đồ của sự hiệp nhất Kitô giáo”, Tuần lễ Cầu nguyện cho sự Hiệp nhất (18-25.01) gặt hái được sự thành công đáng kể ngay từ năm 1932. Linh mục này xác tín rằng sự hiệp nhất sẽ diễn ra vào thời gian và theo cách thức mà Chúa Kitô muốn. Tác phẩm Chrétiens désunis của cha Congar (nay là Hồng y), xuất bản năm 1937, được xem là hiến chương của phong trào đại kết trong Giáo Hội Công giáo.

Tương quan giữa anh em Kitô hữu sau 4 thế kỷ bị che khuất bởi bóng tối chia rẽ, nay Ánh sáng Tin Mừng lại lộ diện từ một trực giác chính của Đức Thánh Cha Gioan XXIII về Công đồng chung: giữa một thế giới đang bị xâu xé, chúng ta hãy cống hiến một tấm gương và sự giúp đỡ của một Kitô giáo yêu thương lẫn nhau và bắt đầu hiệp nhất.

Ngày 21.01.1959, ngài đã nói khi công bố triệu tập Công Đồng Vatican II: “Chúng ta sẽ không làm ra một vụ án lịch sử. Chúng ta sẽ không tìm hiểu xem ai sai ai đúng. Trách nhiệm được chia sẻ. Chúng ta sẽ chỉ nói: chúng ta hãy hòa giải với nhau”. Tái lập sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu là một trong những mục đích chính của Công Đồng thứ 21 này.

Trong một nghĩa cử mang tính ngôn sứ, Đức Gioan XXIII đã mời 80 quan sát viên ngoài Công giáo tham dự các khóa họp Công Đồng. Đến khóa họp IV, có đến 90 đại biểu của các Giáo Hội Chính Thống và Tin Lành. Vào dịp tiếp đón những người anh em này, ngài không ngồi trên ngai tòa mà chỉ ngồi vào một chiếc ghế bành đơn giản. Trong thái độ khiêm tốn, huynh đệ, ngài chú giải câu 20 của Thánh vịnh 68: “Chúa đáng chúc tụng mỗi ngày, vì chính Ngài đã mang lấy gánh nặng của chúng con”.

2. Phong trào đại kết

Phong trào đại kết được phát sinh dưới tác động của Chúa Thánh Thần, nhằm nỗ lực được phát triển từ hơn nửa thế kỷ nay giữa các Kitô hữu thuộc các Giáo Hội Tin lành, Công giáo, Chính thống - nhằm cổ võ sự thống nhất đức tin và hiệp thông giữa các cộng đồng Kitô giáo bị chia rẽ. Cần ghi nhận rằng khởi động ban đầu của phong trào này phát xuất từ phía anh em Tin Lành.

Trong cuộc Hội nghị quốc tế của các Hiệp hội Truyền giáo Tin Lành diễn ra 1910 tại Edimbourg (Écosse), một đại biểu của các Giáo Hội trẻ Cận Đông đã thốt lên với niềm xúc cảm: “Chúng tôi xin cám ơn quí vị đã gởi đến cho chúng tôi những nhà truyền giáo giúp chúng tôi nhận biết Đức Giêsu Kitô. Nhưng quí vị cũng mang đến cả sự phân cách và chia rẽ: những người này giảng thuyết cho chúng tôi về giáo hội Giám Lý, người kia thì Tin Lành Luther, kẻ nọ lại giảng về giáo hội congrégational hay épiscopal. Chúng tôi xin quí vị rao giảng cho chúng tôi Phúc Âm và hãy để cho chính Chúa Kitô, nhờ tác động của Thần Khí, khơi dậy từ các dân tộc chúng tôi, một Giáo Hội phù hợp với những đòi hỏi của Người cũng như phù hợp với tinh thần của giống nòi chúng tôi, tức là Giáo Hội Chúa Kitô tại Nhật Bản, Giáo Hội Chúa Kitô tại Trung Quốc. Làm thế nào để Giáo Hội Chúa Kitô được thoát khỏi các thứ “chủ nghĩa” (isme) mà quí vị sử dụng khi rao giảng Phúc Âm giữa chúng tôi” (Th.Rey Mermet, CROIRE Tom 3 – Vivre la foi avec concile Vatican II, tr. 348-349).

Tiếng kêu có tính cách ngôn sứ này đã tạo nên một âm vang mạnh mẽ nơi nhiều người Tin Lành. Từ đó dần dần hình thành hai phong trào cộng tác liên tín phái (interconfessionnelle): phong trào Sống và Hành Động (1925) cổ võ thực hành chứng từ Kitô giáo và phong trào Đức Tin và Hiến Chế (1927) nhắm đến công tác giáo lý học thuyết. Đến năm 1948, hai phong trào này kết hợp lại thành Hội đồng Đại kết các Giáo Hội (C.O.E). Hội đồng Đại kết các Giáo Hội này vừa mừng sinh nhật thứ 50 vào năm 1998.

Từ năm 1937, anh em Chính Thống giáo đã góp phần tích cực vào phong trào Đại kết khi tham gia hội nghị với hai phong trào tiền thân của Hội đồng Đại kết các Giáo Hội. Anh em Anh giáo đã và đang giữ một vai trò quan trọng trong cuộc đối thoại Đại kết, theo đường hướng của hội nghị Lambeth (1920): coi Kinh Thánh làm quy tắc, trung thành với Kinh Tin Kính các Tông đồ, chấp nhận hai bí tích của Tân ước. Còn phía Công giáo thì dấn thân chính thức vào phong trào đại kết từ thời Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, với hai sự kiện quan trọng.

Thứ nhất là việc thành lập Văn Phòng Hiệp nhất (1960) do Hồng y Bea và Willebrand nối tiếp nhau phụ trách. Văn phòng này cùng với các đại diện tại các quốc gia đã dấn thân vào hàng loạt cuộc đối thoại đào sâu với các Giáo Hội ngoài Công giáo và với Hội đồng Đại kết các Giáo Hội. Nhiều tiểu ban, nhóm làm việc chính thức hay không chính thức (chẳng hạn như Nhóm Dombes) đã đưa ra những Biên bản đồng ý chung về một số chủ đề quan trọng như Thánh Thể, các thừa tác vụ, Đức Maria (Tài liệu của nhóm Dombes mang tựa đề “Đức Maria trong ý định của Thiên Chúa và sự hiệp thông các Thánh” là công trình suy tư chung của 21 mục sư và 19 linh mục, công bố 1998).

Thứ hai là sự ra đời Sắc lệnh về Đại kết (Unitatis Redintegratio ). Ngày 21.11.1964 các nghị phụ Công Đồng đã nhất trí thông qua Sắc lệnh về Đại kết với 2137/2148 phiếu thuận. Qua Sắc lệnh này, Công đồng yêu cầu các Giáo Hội Kitô khác nhau trước hết, hãy quí trọng gia tài chung của mình, đó là Đức Kitô và Tin Mừng. Đừng tố cáo những Kitô hữu không công giáo về tội ly giáo. Công Đồng mong muốn những người Công giáo cũng nhận biết thiếu sót và trách nhiệm lịch sử của mình trong các cuộc ly giáo. Đó cũng là điều mà tuyên bố ngày 07.12.1962, của Đức Phaolô VI và Đức Thượng phụ Athénagoras nhấn mạnh.

III. NHỮNG NẺO ĐƯỜNG VÀ HOA TRÁI CỦA ĐỐI THOẠI ĐẠI KẾT

Từ năm 1965, Ủy ban làm việc hỗn hợp (Commission Mixte de Travail) giữa Giáo Hội Công giáo và Hội đồng Đại kết các Giáo Hội được thành lập. Ủy ban này nhóm họp mỗi năm một lần để tổng kết hoạt động cộng tác giữa Genève và Roma. Trong các dịp này, Ủy ban đưa ra những tuyên ngôn về một số vấn đề quan tâm chung, chẳng hạn như:

– Tính cách Công giáo và Tông truyền (1968)

Chứng từ chung và nhiệt tình tiêu cực (1970)

– Chứng từ chung của các Kitô hữu (1980)

Trật tự chân lý Đức tin (1990)

Giáo Hội diạ phương và phổ quát (1990)

Tiếp bước các vị tiền nhiệm trên con đường Đại kết, năm 1995, Đức Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp Ut Unum Sint về dấn thân Đại kết. Qua đó, chúng ta ghi nhận được những kết quả của cuộc đối thoại Đại kết kể từ công đồng Vatican II đến nay:

– Tái lập tình huynh đệ.

– Liên đới trong hoạt động phục vụ con người.

– Tập chú vào Lời Chúa và phượng tự.

– Đánh giá cao những giá trị thực sự nơi các Giáo Hội khác. Cần lưu ý rằng những gì được Chúa Thánh Thần thực hiện nơi những anh em chia cách với chúng ta cũng góp phần xây dựng Giáo Hội chúng ta.

– Sự tiến triển trong hiệp thông giữa Kitô hữu thuộc các Giáo Hội khác nhau. Tương quan và các cuộc đối thoại thần học mà các Kitô hữu thực hiện giúp cho họ ý thức hơn về những dữ kiện đức tin mà các Kitô hữu có chung với nhau. Đồng thời chứng tỏ sự tìm kiếm hiệp nhất giữa các Kitô hữu không chỉ là một hành động tùy thích mà còn là một đòi hỏi phát sinh từ bản chất của công đồng Kitô giáo.

– Thắt chặt hơn quan hệ đối thoại với các Giáo Hội Đông phương sau nhiều thế kỷ tương quan căng thẳng.

– Nối lại quan hệ với Thượng phụ giáo chủ Chính Thống đại kết, thiết lập cuộc đối thoại về thần học giữa Giáo Hội Công giáo và các Giáo Hội có liên hệ về giáo luật với tòa Thượng phụ giáo chủ Constantinople.

– Đối thoại như một cuộc kiểm điểm lương tâm. Nhận biết điều kiện tội nhân của mình là một đặc tính của tinh thần của đối thoại đại kết.

– Đối thoại để giải quyết những bất đồng. Tình yêu chân lý là chiều kích sâu xa nhất của việc tìm kiếm sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.

– Tương quan giữa các Kitô hữu không chỉ nhắm đến sự hiểu biết lẫn nhau, cầu nguyện chung và đối thoại. Tương quan này còn dự kiến và đòi hỏi ngay từ bây giờ tất cả những sự cộng tác thực hành khả thi trên nhiều mức độ: mục vụ, văn hoá, xã hội cũng như chứng tá về sứ điệp Tin Mừng (Jean Paul II, Ut Unum Sint , số 40).

Một sự kiện lịch sử vừa diễn ra vào ngày 31.10 .1999 tại Ausbourg (Đức), sự kiện đáng cho mọi Kitô hữu lưu tâm và cảm tạ Cha về hoa trái của Chúa Thánh Thần trên chặng đường đại kết. Đó là Tuyên ngôn chung giữa Công giáo và anh em Tin Lành Luther về những chân lý nền tảng của học thuyết “Công chính hóa”, được ký bởi đại diện của hai Giáo Hội: Hồng y Edward Cassidy (chủ tịch Hội Đồng Giáo hoàng Cổ võ sự Hiệp nhất Kitô hữu) và Giám mục Giáo Hội Luther, Christian Krase (đại diện Liên Hiệp Tin Lành Luther Thế giới). Tưởng cũng nên biết ngày 31.10.1517 là thời điểm mà Luther niêm yết 95 Luận đề tại lâu đài Wittenberg. Tuyên ngôn chung này đóng một dấu ấn quan trọng sau một cuộc tranh luận kéo dài 469 năm giữa hai anh em cùng một gia đình Kitô hữu. Thật là ý nghĩa khi tuyên ngôn về “Công chính hóa” này được ký kết tại Ausbourg , là nơi mà các hoàng thân ủng hộ Luther trình cho hoàng đế Charles Quint bản “Tuyên Tín Ausbourg”, tức là bản tham chiếu về đức tin của các Giáo Hội Tin Lành. Có thể cô đọng nội dung chính của tuyên ngôn này nơi quan điểm cơ bản sau đây: chỉ có Đức Tin mới mang lại ơn cứu độ, nhưng đức tin được thể hiện bởi Đức Ái.

Chúng ta tạm dừng bài tìm hiểu về đối thoại đại kết với nhận định của Jean Delumeau, một nhận định đáng cho mỗi người Kitô hữu suy nghĩ và hành động cho công cuộc đối thoại Đại kết, “một con đường khó khăn, nhưng chứa chan niềm vui”: “Tôi không ngần ngại tuyên bố: ngày nay, chúng ta phải là Kitô hữu, trước khi là công giáo, Tin lành hay Chính thống. Đối với tôi, tương lai Kitô giáo để đạt tới thành công, dù chỉ là một phần, phải nhờ Đại kết. Không có Đại kết, Kitô giáo không có tính ‘đáng tin’” (Jean DELUMEAU, “Une crise inédite”, trong le Monde, 5.6.1979).

Lời nguyện của Đức Kitô cần được tiếp tục kêu cầu và thể hiện nơi mỗi Kitô hữu, đặc biệt trong Năm Thánh này: “Lạy Cha, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, xin cho họ cũng được ở trong chúng ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai con... Xin cho họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Ga 17, 21.13).

 Lm. Tâm Giao


Tài liệu tham khảo

Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio

Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ut Unum Sint, 1995

Hội Đồng Giáo Hoàng cổ võ sự Hiệp nhất Kitô hữu, Directoire pour l'application des principes et des normes sur l'oecuménisme, 1993.

NGUỒN: https://tgpsaigon.net/bai-viet/luoc-su-phong-trao-dai-ket-giua-cac-giao-hoi-kito-51637

 -----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ĐÔI NÉT VỀ PHONG TRÀO ĐẠI KẾT

(Mouvement oecuménique)

 Sự tiến triển của Phong trào Đại kết được đánh dấu qua những biến cố quan trọng sau đây:

-Thiết lập Hội đồng các Hiệp Hội Truyền giáo, tại Edimbourg, năm 1910.

 -Từ năm 1935, Cha Paul Couturier  đã có nhiều hoạt động nhằm cổ võ cho Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

 -Thiết lập Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội (C.O.E) năm 1948, tại Amsterdam, thành viên lúc đó gồm 147 tổ chức Giáo Hội (đến nay là trên 300 thành viên) thuộc các Giáo Hội Anh Giáo, Tin Lành và Chính Thống. Từ năm 1961, Giáo Hội Công Giáo chính thức là quan sát viên của Hội Đồng này.

 -Về phía Giáo Hội Công Giáo, năm 1960, Đức Gioan XXIII thiết lập Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô, có sứ mạng xây dựng mối liên lạc đại kết với các Giáo Hội ngoài Công Giáo.

 -Công đồng Vatican II từ năm 1962 đến 1965.  Nhiều tài liệu đã được soạn thảo do các Uỷ ban hỗn hợp về đối thoại, góp phần thăng tiến sự hiệp nhất giữa các Giáo Hội, như những dấu chỉ của niềm hy vọng vào sự hiệp thông trọn vẹn trong tương lai. Đặc biệt phải kể đến Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio (1964). Tinh thần đại kết cũng được nhấn mạnh trong các văn kiện khác của Công Đồng:  Hiến Chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium),  Hiến Chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum), Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo…

 -Một văn bản quan trọng đã được ký kết giữa hai Giáo Hội  Công Giáo và Tin Lành có nội dung liên quan đến giáo lý chung về ơn công chính hóa bởi  ân sủng, qua đức tin như phương tiện (vấn đề này đã gây nên nhiều tranh cãi và dẫn đến cuộc Cải cách ở thế kỷ 16). Liên đoàn quốc tế Giáo Hội Luther  (F.L.M) và Giáo Hội Công giáo đã cùng ký văn bản này tại Augsbourg ngày 30-10-1999. Trong khối Pháp ngữ, với sự cộng tác của các chuyên viên các Giáo Hội Kitô, bản dịch  kinh Lạy Cha đã được thực hiện năm 1966 (được dùng trong Phụng vụ hiện nay tại các nước thuộc khối Pháp ngữ) và bản dịch Kinh Thánh Đại kết  (TOB) đã thực hiện năm 1972.

 Ngoài ra còn có những cuộc gặp gỡ lịch sử mở ra những bước tiến mới trong tinh thần Đại Kết: cuộc gặp gỡ giữa Đức Phaolô VI và Thượng Phụ Constantinople Athenagoras tại Giê-ru-sa-lem năm 1964; Cuộc viếng thăm của Đức Phaolô VI tại Tòa Thượng  Phụ Constantinople năm 1967, rồi tại Hội Đồng Đại kết các Giáo Hội tại Genève năm 1969. Đức Gioan Phaolô II đã nối bước các Vị Tiền Nhiệm khi đến thăm Tòa Giáo Chủ Giáo Hội Anh Giáo Cantobéry  1982 và nhiều cuộc gặp gỡ với các vị lãnh đạo cấp cao của các Giáo Hội Kitô khác.

 Những cố gắng tiến tới Đại kết còn thể hiện qua những  nghiên cứu chung về Thần Học và Thánh Kinh, những buổi hội thảo và nhiều dịp gặp gỡ quan trọng khác trong các lãnh vực quốc tế, khu vực và quốc gia.

 -Qua Tông Huấn Pastor Bonus ký ngày 28-06-1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đổi tên “Văn Phòng Hiệp nhất các tín hữu Kitô” thành “ Hội Đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô” (CPPUC). Danh xưng mới này chính thức được sử dụng từ ngày 01-03-1989.

 Phong trào Đại kết nhằm thực hiện lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “xin cho họ nên Một (…) để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21). Phong trào này đề nghị nhiều phương pháp khác nhau: cầu nguyện, kiên nhẫn, cộng tác và can đảm làm việc. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhận định Phong trào Đại kết “là một sứ mạng huyền nhiệm và quan trọng nhất trong triều đại Giáo Hoàng của Ngài”, và Đức Gioan Phaolô II luôn luôn nhắc lại rằng đó là một trách nhiệm không thể thoái thác và dửng dưng được.

 Lời cầu nguyện của Cha Paul Couturier:

 Lay Chúa Giêsu, trước ngày chịu khổ hình vì chúng con,

Chúa đã cầu nguyện cho các môn đệ Chúa được hoàn toàn hiệp nhất,

Như Chúa ở trong  Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa

Xin làm cho chúng con cảm thấy đau đớn vì sự bất trung do chia rẽ

Xin cho chúng con thành tâm thú nhận điều đó

Và có can đảm gạt bỏ những gì  là dửng dưng, nghi ngờ  và ngay cả sự ghen ghét thù oán đang ẩn nấp trong chúng con.

Xin ban cho chúng con được gặp gỡ nhau trong Chúa,

Để từ tâm hồn và miệng lưỡi chúng con,

Không ngừng vang lên lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô

Như Chúa hằng mong muốn và với phương tiện mà Chúa muốn.

Lạy Chúa là Đức Aùi hoàn hảo, xin hãy  soi sáng cho chúng con  thấy con đường dẫn tới sự hiệp nhất

Trong sự tuân phục tình yêu và chân lý của Chúa. Amen

TUẦN CẦU NGUYỆN CHO SỰ HIỆP NHẤT CÁC TÍN HỮU KITÔ 2007

“Người làm cho những kẻ điếc nghe được và những kẻ câm nói được” ( Mc 7,37)

Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô được chính thức thiết lập từ tháng Giêng năm 1939. Đã 68 năm kể từ ngày thành lập, tuần cầu nguyện này vẫn mang tính hiện tại với sức sống sôi động, mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Đặc biệt  tại những nơi có những nhóm cầu nguyện đại kết, các tín hữu Kitô vẫn muốn tham dự để cùng xin ơn “hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn, bằng phương tiện mà Thiên Chúa muốn”. Đề tài của năm nay được gợi ý do một Uỷ Ban quốc tế liên kết giữa Hội đồng Tòa Thánh cổ võ sự hiệp nhất các tín hữu Kitô và Hội Đồng đại kết các Giáo Hội. Uỷ Ban này cùng công bố một tài liệu chính thức  chuẩn bị cho Tuần cầu nguyện năm nay.

Bài suy niệm của Tuần cầu nguyện năm 2007 do các cộng đoàn Kitô miền Umlazi, gần Durban, Nam Phi đề nghị. Đây là nơi còn tồn tại nạn phân biệt chủng tộc, nạn nghèo đói do hậu quả của chế độ “Apartheid” và tiếp tục gây nên những thảm họa, nhất là những bệnh nhân  SIDA hiện nay đã lây nhiễm và lan tràn trong gần một nửa dân số. Chính sự xấu hổ và mặc cảm vì bệnh SIDA đã gây khó khăn cho cuộc chiến chống lại đại họa này. Vì vậy, các cộng đoàn Kitô được mời gọi hãy “đập tan sự  im lặng” đang đè nén và cô lập mọi người trong nỗi đau của họ.

Trong chiều hướng đó, đoạn Tin Mừng Mc 7,31-37 được chọn như  trọng tâm của Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô năm 2007. Đoạn Tin Mừng này kể lại Đức Giêsu đã chữa lành một người câm. Khi  ban lại cho anh khả năng nghe và nói, Đức Giêsu thể hiện quyền năng và ước muốn của Thiên Chúa muốn cứu rỗi  con người cách toàn vẹn, để thực hiện lời Ngôn sứ Isaia: “Khi đó, mắt người mù sẽ thấy và tai người điếc sẽ mở ra. Khi đó, người què sẽ nhảy nhót như nai và miệng người câm sẽ la lên vì vui sướng” (35,5-6). Việc chữa lành người điếc cho phép anh ta được nghe Tin Mừng do Đức Giêsu Kitô loan báo. Việc anh có thể nói được cho phép anh loan báo cho người khác điều anh đã thấy và đã nghe. Những viễn tượng khác nhau này được nêu lên trong câu trả lời của những người đã chứng kiến phép lạ  và họ rất đỗi ngạc nhiên: “Người làm cho những kẻ điếc nghe được và những kẻ câm nói được” (câu 37).

Khi suy niệm toàn bộ đoạn Tin Mừng này, tất cả những ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô được mời gọi nhớ lại rằng họ cũng đã có đôi tai mở ra để đón nhận Tin Mừng, như người câm điếc được Đức Giêsu chữa lành. Họ cũng được nhắc nhớ rằng Giáo Hội phải lắng nghe tiếng kêu than của tất cả những ai đang đau khổ. Được thúc đẩy bởi sự cảm thương, Giáo Hội phải lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, như chính Thiên Chúa đã lắng nghe những tiếng kêu than và Ngài đã thấy những đau khổ của Dân Ngài trong Ai-cập (x. Xh 3,7-9), và như Đức Giêsu đã thương xót  đối với những ai kêu cầu Người.

Như vậy, đoạn Tin Mừng được đề nghị cho những suy niệm trong Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô được hiểu trong cả chiều hướng Thánh Kinh và Thần Học, nhấn mạnh đến việc lắng nghe, đến ngôn ngữ và đồng thời sự thinh lặng, trong đó vừa tìm kiếm sự hiệp nhất, vừa tìm ra một lời đáp trả cho những nỗi đau của nhân loại ngày nay. Có hai lời mời gọi gửi đến Giáo Hội và các tín hữu Kitô:

-Cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô và cùng nhau xây dựng sự hiệp nhất đó.

-Liên kết tạo sức mạnh để xoa dịu sự đau khổ của đồng loại

Hai  hình thức trách nhiệm này liên kết chặt chẽ với nhau. Cả hai đều gắn liền với việc chữa lành Nhiệm Thể  Đức Kitô. Vì vậy bản văn được chọn lựa cho Tuần cầu nguyện năm 2007 là một tường thuật về chữa lành.

Để hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ của Đức Kitô, chúng ta hãy tổ chức tuần cầu nguyện từ ngày 18-25 tháng Giêng tại các cộng đoàn Giáo xứ. Những sáng kiến, nỗ lực để đối thoại với Anh Em Tin Lành ở Việt Nam cũng được đề nghị để xây dựng sự hiệp nhất. Nếu chúng ta chưa tiến tới sự hiệp nhất  trong lãnh vực thần học, ít ra chúng ta có những cộng tác chung với nhau để cùng thực thi bác ái và góp phần thăng tiến con người trên Quê Hương Đất Nước Việt Nam thân yêu.

Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên

Giáo phận Hải Phòng

(Sưu tầm và chuyển ngữ)

 

Dictionnaire Encyclopedia Universalis, France, 1997

Th. Rey Mermet, CROIRE Tom 3 - Vivre la foi avec concile Vatican II, Droguet et Ardant 1979.

Le septième Rapport du Groupe Mixte de Travail entre l'Eglise catholique romaine et le Conseil Oecuménique des Eglises (Texte original anglais. Traduction du P. Daniel Olivier, aa, pour le Secrétariat du Conseil Pontifical pour la Promotion de l'Unité des chrétiens) – La Documentation Catholique , N° 2188 (06/09/1998).

Actualité des Religions , No 11 (Décembre 1999).

 



[1] Tính đến 2011, có 1 tỉ 214 triệu người Công giáo

 

Lm Giuse Phan Tấn Thành OP

Phong Trào Đại Kết : những bước hình thành

Giáo Hội Công Giáo với Phong Trào Đại Kết

Kính thưa quý vị và các bạn,

Trong bài trước, chúng ta đã đi ngược lại dòng lịch sử để tìm hiểu những lý do đã đưa các tín đồ của đức Kitô đền chỗ phân rẽ trong 20 thế kỷ qua. Trong bài hôm nay thì chúng ta quan sát một hiện tượng ngược lại, đó là lịch sử của những nỗ lực để tái lập sự hiệp nhất.

Chúng tôi đã có dịp nhắc đến hai công đồng Lyon II (1274) và Firenze (1439) đã gắng tìm ra những công thức thỏa hiệp giữa Rôma và Constantinôpôli; nhưng sự hợp nhất không được bền lâu. Vào thời Cải cách, nhiều cuộc gặp gỡ giữa Lutêrô với Tòa thánh đã diễn ra trước và trong công đồng Trentô. Hồi triệu tập công đồng Vaticano I, đức Piô IX đã mời các Giáo hội chính thống đến dự, nhưng thư mời bị gửi trả lại. Thực ra, thì cho tới đầu thế kỷ 20, Giáo Hội Công giáo hiểu sự hợp nhất theo nghĩa là các phe phái kia hãy ăn năn trở lại phục tùng đức Giáo hoàng: đó là hình ảnh lý tưởng của một đàn chiên với một chủ chiên. Công tác hợp nhất được ủy thác cho bộ Truyền giáo: cơ quan này phải tìm cách để cho người ngoại giáo lẫn người lạc giáo trở lại với chính đạo. Dưới viễn ảnh đó, không có chuyện "đối thoại đại kết". Danh từ này được đặt lên do một phong trào bắt nguồn từ các nhóm Cải cách. Chúng ta hãy theo dõi lịch sử của nó, trước tiên là ở ngoài Giáo hội công giáo, và sau đó trong Giáo hội Công giáo.


I. Phong trào đại kết

Tiếng "đại kết" dịch  bởi từ ngữ oecumenismus. Thực ra, thì  từ này trong nguyên ngữ Hy lạp và Latinh mang rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Hy lạp, từ "oikouméne" (bởi danh từ "oikos": nhà) lúc đầu có nghĩa là những vùng đất đã có người cư ngụ (đã xây cất nhà cửa), rồi dần dần mở rộng ra đến toàn thể thế giới. Cách riêng hoàng đế Rôma mang tước là "oikumêne", nghĩa là bá chủ khắp thế giới (chỉ trừ những vùng đất hoang dã của quân man di, barbaroi). Từ đó mà sinh ra tính từ "oecumenicus" (thí dụ: "concilium oecumenicum": công đồng do hoàng đế triệu tập, hay là công đồng quy tụ hàng giám mục thế giới). - Khi phong trào hợp nhất các Kitô hữu ra đời vào thế kỷ 20, người ta muốn lấy lại tiếng "oecumenismus" để biểu lộ niềm khát khao được thấy Giáo hội mang chiều kích hoàn vũ, vượt qua hết mọi hình thức phân ly chia rẽ.

Có thể lấy năm 1910 như khởi điểm của phong trào đại kết cận đại.  Vào năm ấy một Đại Hội của các Hội truyền giáo Tin lành (World Missionary Conference) được tổ chức Edinburgh, (Scotland). Lý do đưa tới việc tổ chức Đại hội là thực trạng chua chát của các xứ truyền giáo, khi mà các giáo đoàn trẻ chất vấn những nhóm thừa sai: "Tại sao các ông đều rao giảng một đức Kitô như nhau, mà các ông lại chia rẽ thành bao nhiêu là phe nhóm, nào là metodist, nào là luteranist, nào là episcopalist? Tại sao các ông vừa mang cho chúng tôi Tin mừng của đức Kitô mà vừa mang theo các sự phân hóa từ Âu Mỹ sang đây làm gì?" . Chính vì ý thức rằng sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một chướng ngại cho việc Truyền giáo, cho nên các Hội Truyền giáo mới quyết định nhóm họp lại để tìm cách thức giải quyết. Cuộc gặp gỡ giữa các Hội Truyền giáo đã dần dần đưa tới sự gặp gỡ giữa các Giáo hội dưới danh nghĩa của Hội đồng quốc tế truyền giáo (International Missionary Council) ra đời năm 1921.

Từ kinh nghiệm gặp gỡ vừa nói, dần dần nảy ra hai cơ quan khác, biểu lộ cho hai đường lối để tiến tới sự hiệp nhất: một đàng về đạo lý, một đàng về hoạt động. Cơ quan thứ nhất mang tên là Faith and Order (Pháp: Foi et Constitution. "Đức tin và Định chế) chuyên về các vấn đề đức tin và thể chế của Giáo hội. Họ đã tổ chức hai Hội nghị quốc tế ở Lausanne (1927) và Edinburgh (1937). Cơ quan thứ hai mang danh là Life and Work (Pháp: Vie et Action. "Đời sống và Hành động") được thành hình ngay từ năm 1925 tại Hội nghị Stockholm (Thụy điển). Phương châm của họ là: "đạo lý năng gây chia rẽ, còn hành động thì sẽ gây đoàn kết". Vì vậy việc hợp tác vào các công tác phụng sự xây dựng xã hội sẽ dần dần đưa các giáo hội xích lại với nhau.

Tuy nhiên sau hội nghị lần thứ hai tại Oxford năm 1937, họ nhận thấy rằng sự chia rẽ về đạo lý cũng mang theo những chia rẽ về quan điểm hành động. Do đó mà hai cơ quan đã đồng ý sát nhập lại thành một Tổ chức mang danh là "Hội đồng thế giới các Giáo hội" (World Council of Churches), với quy chế tạm thời được biểu quyết tại Utrecht năm 1938. (Lưu ý: dựa theo Pháp ngữ, Conseil Oecuménique des Églises trong tiếng Việt thường hay dịch là "Hội đồng đại kết các Giáo hội", nhưng có lẽ không chỉnh lắm; có thể đối chiếu với tiếng Tây ban nha Consejo Mundial de las Iglesias). Tiếc rằng thế chiến thứ hai bùng nổ, cho nên phải chờ tới năm 1948 thì mới có thể triệu tập Đại hội đầu tiên tại Amsterdam (Hòa lan) từ ngày 22/8 tới 4/9. Tiêu chuẩn đạo lý căn bản để gia nhập Hội đồng là chấp nhận đức Kitô là Chúa Cứu thế.

Phải chờ tới năm 1961, Đại hội New Delhi mới hoàn chỉnh công thức phát biểu đạo lý căn bản như sau: "Hội đồng thế giới các Giáo hội là một hội nghị của các Giáo hội tuyên xưng đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu thế theo Kinh thánh; do đó họ nỗ lực thể hiện ơn gọi chung hầu làm vinh danh Thiên Chúa duy nhất, Cha, Con và Thánh Thần". Đúng ra đây không phải là một tín biểu mới, nhưng chỉ muốn đặt ra một cơ sở tối thiểu cho các cuộc đối thoại giữa các thành viên. Thực vậy, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, không thiếu lần có những nhóm tự xưng là Kitô hữu nhưng lại không chấp nhận thiên tính của đức Kitô hoặc không chấp nhận tín điều Chúa Ba Ngôi. Hội đồng thế giới các Giáo hội không phải là một thứ siêu Giáo hội, cũng chẳng phải là Giáo hội duy nhất mà phong trào đại kết mong đạt đến. Tổ chức này chỉ là nơi để các Giáo hội đến gặp gỡ học hỏi lẫn nhau, và tương trợ nhau trong sứ mạng truyền giáo. Trụ sở của Hội đồng đặt tại Genève.

Từ ngày thành lập tại Amsterdam năm 1948 đến nay, Hội đồng đã tổ chức các Đại hội sau đây: Evanston (1954), New Delhi (1961), Uppsala (1968), Nairobi (1975), Vancouver (1983) Canberra (1991). Đại hội lần tới được dự trù sẽ họp vào năm 1998 tại Harare (Zimbabwe).

Hiện nay có tới hơn 300 Giáo Hội đã làm thành viên của Hội đồng, trong đó có cả các Giáo hội chính thống. Giáo hội Công giáo không gia nhập Hội đồng, vì quan điểm khác nhau về Giáo hội học. Tuy nhiên, từ năm 1961, Giáo hội Công giáo gửi quan sát viên tham dự các Đại hội, và nhất là từ năm 1965 đã thành lập một nhóm làm việc chung với Hội đồng. Ngoài ra, Giáo hội Công giáo còn cử 12 đại biểu làm thành viên chính thức của Ủy ban "Đức Tin và Định chế". Như đã nói trên đây, vai trò của ủy ban này là nghiên cứu những khía cạnh thần học nhằm tiến tới sự hợp nhất các Kitô hữu. Theo quan điểm của ủy ban, sự hợp nhất các Kitô hữu có nghĩa là sự thông hiệp trong đức tin, trong đời sống làm chứng tá Phúc âm và trong sứ mạng truyền giáo. Để tiến tới sự hiệp nhất đó, càn phải qua 3 chặng sau đây:

1/ Cùng nhau tuyên xưng một đức tin tông truyền;

2/ Nhìn nhận nơi các Giáo hội cùng có chung những yếu tố tông truyền, đặc biệt là bí tích rửa tội, Thánh thể và các tác vụ;

3/ Thiết lập những cơ chế chung nhằm bảo đảm việc chung nhau làm chứng tá, cũng như những cơ quan có thẩm quyền quyết định đường lối hành động và giảng dạy.

Chặng thứ nhất được đánh dấu với văn kiện "Tuyên xưng một niềm tin" (Confessing the One Faith) được hoàn chỉnh vào năm 1993 trong phiên họp tại Santiago de Compostela. Chặng thứ hai được tiến hành với việc tham khảo lược đồ mang tên "Rửa tội - Thánh thể - Tác vụ" (Baptism, Eucharist, Ministry, gọi tắt bằng 3 chữ đầu là BEM, soạn tại Lima năm 1982).


II. Giáo hội công giáo với Phong trào đại kết

Trong số các nhân vật mở đường cho phong trào đại kết về phía công giáo, ta có thể đến Hồng y John Henry Newman (1801-90) hồi cuối thế kỷ 19. Khi còn là phần tử của Giáo hội Anh quốc, cha Newman đã mở những cuộc hội thảo để xích lại gần Giáo hội công giáo. Ý nguyện đó vẫn tiếp tục sau khi cha gia nhập công giáo. Sang thế kỷ 20, vào những năm 1921-26, tại Malines đã có những cuộc đối thoại giữa Lord Halifax, một giáo dân Anh giáo với linh mục Portal người Pháp, dưới sự điều động của Hồng y Mercier.

Năm 1925, cha Lambert Beauduin (1873-1960) thành lập đan viện Biển đức tại Chevretogne và năm 1926, cha C.J. Dumont mở trung tâm "Istina" hướng tới việc học hỏi và đối thoại với các Giáo hội Đông phương. Năm 1933, cha Paul Couturier (1881-1953) đã mở trung tâm công giáo đại kết ở Lyon, cổ động việc cầu nguyện cho các Kito hữu được hợp nhất. Năm 1937, cha Yves Congar (1904-95) xuất bản quyển sách Chrétiens désunis. Principes d'un "oecuménisme catholique", một tác phẩm thần học công giáo đầu tiên về đại kết.

Thế nhưng đó chỉ là những sáng kiến cá nhân. Tòa thánh tỏ ra dè dặt đối với phong trào đại kết: thông điệp Mortalium animos của đức Piô XI (6/1/1928) chấp nhận một đường lối hợp nhất duy nhất là các nhóm ly khai phải trở về với Giáo hội công giáo.

Dưới thời đức Piô XII, huấn thị De motione ecumenica của Bộ Thánh vụ (20/12/1949) hé mở cho người công giáo được phép tham gia vào các hội nghị đại kết với một số điều kiện.

Phải chờ tới khi đức Gioan XXIII đắc cử Giáo hoàng thì lập trường của Tòa thánh mới thay đổi. Sau khi loan báo triệu tập công đồng Vaticano II, vào ngày lễ Hiện xuống năm 1960 (5/6), ngài đã cho thành lập Văn phòng cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu do đức Hồng y Augustinô Bea (1881-1968) làm chủ tịch. Việc đối thoại đại kết trở thành một điểm then chốt trong chương trình của công đồng.

NGUỒN:https://daminhvn.net/suy-tu-nghien-cuu/than-hoc-dai-ket--lich-su-phong-trao-dai-ket-6998.html

 

See less

No comments:

Post a Comment