ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ“Tôi biết tôi tin vào ai” (2Tm 1, 12)
Nhiều
người nghĩ rằng nhân loại càng văn minh hiểu biết, khoa học càng phát
triển, thì những huyền thoại và mọi niềm tin cũng chấm dứt, con người sẽ
tự động vượt thoát khỏi những lệ thuộc tôn giáo để chỉ tin vào sức mạnh
vạn năng của lý trí. Bởi
vậy, lý tính khoa học được tôn làm thẩm phán tối cao và là nguồn gốc
của mọi chân lý. Nhà khoa học Berthelot đã ngang nhiên xác quyết như
sau: “Thế giới này không còn huyền bí nữa… Khái niệm phép lạ và siêu nhiên tan biến như một ảo ảnh vô ích, một thiên kiến lỗi thời”. Thế nhưng nhà bác học Albert Einstein khẳng quyết ngược lại: “Điều
đẹp nhất mà chúng ta có thể cảm nhận được chính là khía cạnh huyền bí
của cuộc đời. Đó là tình cảm sâu xa ở trong nôi của khoa học và nghệ
thuật đích thực”.
Không
chỉ những người vô thần, mà còn ngay trong nội bộ Kitô giáo, cũng có
những người mang tham vọng muốn “giải huyền” để chỉ còn lại những gì là
thuần túy nhân loại. Nhưng khi người ta chối bỏ niềm tin này thì lại tạo
nên niềm tin khác, phủ bỏ Thần Thánh nọ thì lại dựng nên thần thánh
kia. Thay vì tin vào một Thực tại Siêu việt hay vào Thiên Chúa, thì họ
lại tin vào những thực tại trần thế được con người tuyệt đối hóa. Bởi
vậy, Thượng đế của nhiều người hôm nay là tiền bạc, danh vọng, khách
hàng, tiến bộ khoa học kỹ thuật, hay những nhân vật được đánh bóng và
thần thánh hóa. Những ai đã từng đặt hết hy vọng vào cuộc sống này thì
cuối cùng kết quả thực tế là gì? Những tang thương, vỡ mộng của những hy
vọng trong thế kỷ qua chưa làm thức tỉnh những ai chỉ tin vào quyền lực
của lý trí sao? Khoa học có thể giải đáp nổi cái huyền bí đen tối nhất
của đời người là cái chết sao? Paul Valéry nói lên tâm trạng của con
người hôm nay rằng: “Chúng tôi văn minh? Nhưng chúng tôi biết rằng chúng tôi phải chết!”. Như vậy, niềm tin vào Thiên Chúa là huyền thoại hay niềm tin vào cuộc sống này là huyền thoại?
1. Huyền thoại hay huyền nhiệm?
Điều quan trọng đối
với chúng ta không phải là khai trừ mọi huyền thoại, hay chối bỏ mọi
niềm tin để rồi làm cuộc đời trở nên nghèo nàn và trống rỗng. Nếu biết
đề cao lý trí, thì hãy dùng lý trí để chọn lựa, gạn lọc những gì có thể
làm triển nở và nâng cao tầm nhìn của con người. Lý trí phải sáng suốt
phân biệt huyền thoại với huyền nhiệm, thần thoại với niềm tin chân
chính. Phải vượt qua huyền thoại để tiến sâu vào huyền nhiệm. Huyền
thoại chỉ là sản phẩm của con người, có tác dụng kích thích trí tưởng
tượng và làm nên những cảm hứng rất thi vị cho đời, nhưng nó không có
khả năng nuôi dưỡng tâm hồn. Huyền thoại tích cực có thể gợi ra phương
hướng sống nhưng không làm nên lý tưởng sống. Nó có thể làm nên những
ước mơ, nhưng không thể biến ước mơ thành hiện thực.
Trái
lại, huyền nhiệm là tác phẩm của Thiên Chúa, là sinh khí làm nên sự
sống mới cho tâm hồn, là chân trời mới bộc lộ cho ta những gì ẩn giấu
trong Thiên Chúa mà Ngài muốn mặc khải cho nhân loại. Huyền nhiệm đưa ta
vào thế giới của Thiên Chúa, mang lại cho ta tâm tình an vui và hy vọng, dạy
ta biết sống yêu thương và hiến dâng. Đành rằng con người không thể
sống thiếu cơm bánh, nhưng cũng không thể sống viên mãn chỉ bằng cơm
bánh. Đành rằng chúng ta phải sống thực tế, sống hết mình và hết tình để
thăng tiến bản thân và góp phần xây dựng cuộc đời này, nhưng cũng phải
sống có lý tưởng, có niềm tin và sự trông cậy để được nâng đỡ và ấp ủ
trong huyền nhiệm. Trên nền tảng thiêng liêng đó con người mới vững vàng
vượt qua gian nan và thách đố của cuộc đời để thành toàn chính mình
trong một định hướng siêu việt, đã được ghi khắc trong chính thâm tâm
của mỗi người.
Quả thật, “Cái
thế giới tinh thần của con người là vô cùng phức tạp, vì sự vận động
của nó luôn luôn nhắm tới cái thật cao và thật xa. Càng có tuổi thì cái
nhu cầu hướng tới cái tận thiện tận mỹ, thậm chí tới cái vô cùng càng
mãnh liệt.” (Nhà Văn Nguyễn Khải). Không phải chúng ta muốn khoác
cái áo huyền nhiệm vào cuộc sống này, nhưng tự cuộc sống đã là điều
thiêng liêng, huyền nhiệm. Bởi vì con người đã được sáng tạo nên như
thế. Huyền nhiệm chính là bản chất của đời sống con người: “Linh ư vạn vật”.
2. Ý nghĩa sâu xa của đức tin
Trong
tâm trí mỗi người có một khoảng trống dành cho sự vô tín hoặc sự nghi
ngờ hiện diện. Có nhiều vấn đề người ta suy nghĩ mà không tin, cũng có
những điều người ta tin mà không suy nghĩ. Có nhiều vấn đề con người tin
mà không thực hữu, nhưng cũng có những điều thực hữu mà con người chưa
tin.
Đức
Tin là một điều tối quan trọng mà con người không ý thức hết. Đó là vì
sự hiểu biết của con người còn quá ít so với chân lý mênh mông. Nếu phủ
nhận đức tin, con người chỉ còn lại phần lý trí hẹp hòi mà thôi. Nhưng
khi con người đã có lòng tin mà lại tin một cách thuần lý trí để rồi
lòng tin ấy tiếp tục bị đặt vào sự sai lầm nữa thì còn khốn đốn hơn.
Chúa biết điều nầy nên Ngài ban cho chúng ta Đức Tin vào Ngài. Chúng ta
tin rằng có vô số vấn đề đã được dựng nên, đã hiện hữu từ trước mà con
người chưa biết, chưa nghĩ ra và chưa tin. Hay nói một cách khác, có
những sự thực hữu mà tâm trí con người chưa hề với tới. Ngoài tâm trí,
con người còn vô số thực hữu mà “Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi.” (1Cr 13, 12).
Tin
không những là tin có Thiên Chúa (credere Deum), mà còn tin nơi giáo
huấn của Ngài (credere Deo) và tin vào tình thương của Ngài (credere in
Deum). “Tin trước hết là chấp
nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng. Chúa không
phải là Đấng bắt con người phải kính mến, nhưng là Đấng mà con người
phải để cho Ngài yêu thương mình vô hạn”. (ĐHV, 113). Thiên Chúa cao cả, siêu việt, không phải vì Ngài “toàn năng”, nhưng vì Ngài “toàn ái”.
Đã
gọi là đức tin tất nhiên vượt trên lý trí và trong những trường hợp nào
đó ta phải từ bỏ một phần nào đòi hỏi chính đáng của lý trí. Vì tin
không thể đồng nghĩa với tôi thấy hay tôi biết. Đã biết, đã thấy thì đâu
còn gọi là tin. Chính vì vậy mà thư gởi tín hữu Do Thái mới xác định: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11, 1). Đức Bênêđictô XVI cũng cho biết: “Ngay
bây giờ, đức tin đã cho chúng ta điều gì đó của thực tại được mong chờ,
và thực tại hiện tại cho chúng ta một “bằng chứng” về những điều chúng
ta chưa thấy”. (Spe salvi, 7).
Thật
sự, đức tin tạo cho cuộc sống một cơ sở mới, một nền tảng mới mà con
người có thể dựa vào. Nền tảng mới này làm cho cơ sở thông thường như
lợi nhuận hay tài sản vật chất trở nên tương đối hóa. Và cũng từ đó, một
tự do mới được phát sinh, biểu lộ bằng những hành động từ bỏ lớn lao vì
tình yêu Đức Kitô, đến độ dám hy sinh chính bản thân mình để đem lại sự
nâng đỡ, ánh sáng và niềm vui cho những ai đang sống trong tối tăm, sầu
khổ. Đã có biết bao tấm gương như thế của các Kitô hữu trong mọi thời
đại, chứng tỏ đức tin đã làm nên đời sống mới của họ, và là “bằng chứng”
cho những gì sẽ đến. Lời hứa của Đức Kitô cũng thế, không chỉ là một
thực tại được mong đợi, nhưng là một hiện diện thực sự: Ngài mới thực sự
là “triết gia” đúng nghĩa và là “mục tử” nhân lành, Đấng chỉ cho chúng
ta biết thế nào là sự sống đích thực và nơi đâu có sự sống ấy. Sự sống
ấy cũng chính là Đức Kitô, trong Ngài, Thiên Chúa đã biểu lộ chính mình
(x. Spe salvi, số 8).
Đối
với Kitô giáo, đức tin mang một tính chất lịch sử đặc biệt, vì Lời của
Thiên Chúa đã thực sự trở thành Ngôi Lời, sống giữa nhân loại (x. Ga 1,
9-10). Vì thế, tin có nghĩa là tin ở, tin vào Đức Kitô. “Những ai đón nhận và tin vào danh Ngài, thì Ngài cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”
(Ga, 1, 12), nghĩa là ngay từ đời này người tín hữu đã được tham dự vào
nguồn sống vô biên của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô. (x. Ga 3, 16.36). Do
đó mà thánh Phaolô đã xác quyết một cách mạnh mẽ: “Tôi biết tôi tin vào ai”(2Tm 1, 12). Đó là một đức tin hoàn toàn sáng suốt và chắc chắn đối với chính mình. Hơn nữa, trong Đức Kitô, những kẻ tin Ngài “được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 13, 11). Thực sự họ “đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Ngài” (1Cr 1, 5). Đó mới là sự hiểu biết vượt trên mọi hiểu biết, đưa con người đến ơn cứu độ muôn đời.
Tin
không phải chỉ là liên kết với chân lý mà còn là một cách thế sống và
là một hành trình tiến về chân lý. Tin như thế luôn bao hàm một dấn thân
trọn vẹn, một nỗ lực vươn lên không ngừng, để tin làm sao thì sống làm
vậy. Tuy nhiên, ân sủng của Thiên Chúa mới là yếu tố quyết định, là bản
chất của đức tin. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi đời sống của một
con người, là một sự công chính hóa do lòng thương xót Chúa, chứ không
phải do con người muốn làm nên dựa vào tài đức hay sự tốt lành của mình.
3. Giá trị của lý trí
Trong
Thông điệp “Về niềm hy vọng Kitô giáo” (Spe salvi) số 23, Đức Benêđictô
đã nói thật hay về bản chất, giá trị và vai trò của lý trí như sau:
“Quả
thật, lý trí là hồng ân cao quí Thiên Chúa ban cho con người, và sự
chiến thắng của lý trí trên sự phi lý cũng là một mục tiêu của đức tin
Kitô Giáo. Nhưng khi nào thì lý trí thực sự làm chủ? Phải chăng khi lý
trí được tách ra khỏi Thiên Chúa? Phải chăng khi nó trở nên mù lòa trước
Thiên Chúa? Phải chăng lý trí của quyền lực và của hành động đã là toàn
bộ lý trí? Nếu tiến bộ, để thực sự là tiến bộ, phải cần đến sự tăng
trưởng luân lý của nhân loại, thì lý trí của quyền lực và hành động còn
cần hòa nhập vào việc phân định thiện ác cách khẩn thiết hơn nữa, nhờ lý
trí mở ra với những sức mạnh cứu độ của đức tin. Chỉ có như thế lý trí
mới trở nên thực sự nhân bản, và có khả năng chỉ đường cho ý chí, và lý
trí chỉ làm được điều này khi nó biết vượt lên chính mình. Ngược lại,
khi mất quân bình giữa khả năng vật chất và sự thiếu phán đoán của con
tim, thì tình trạng đó sẽ trở nên một đe dọa cho con người và toàn thể
tạo thành…
Không
còn nghi ngờ chút nào rằng Thiên Chúa thực sự bước vào cuộc sống của
con người, không chỉ đơn thuần vì chúng ta tưởng nghĩ đến Ngài, nhưng
chính Ngài đích thân đến gặp gỡ và ngỏ lời với chúng ta. Chính vì thế mà
lý trí cần đến đức tin để hoàn toàn là chính mình: lý trí và đức tin
cần đến nhau để hoàn thành bản chất và sứ mạng đích thực của mình”.
4. Sự liên kết chặt chẽ giữa đức tin và lý trí
Giữa
niềm tin và lý trí, giữa huyền nhiệm và khoa học đành rằng có những
khác biệt, là hai lãnh vực khác nhau, nhưng không vì thế mà đối nghịch
nhau. Cả hai đều lớn lên với nhau và tồn tại trong nhau nơi đời sống của
một con người. Chúng bổ túc và phong phú hóa cho nhau để giúp con người
hình thành quan niệm đúng đắn và quân bình về cuộc sống, đồng thời làm
triển nở sâu rộng mọi chiều kích nhân-linh.
Trước tiên chúng ta cần xác định rằng: “Không
hề có sự xung đột giữa một nhà khoa học thực thụ với một người đặt niềm
tin vào Thiên Chúa, Đấng chăm sóc tới từng cá nhân chúng ta”. Đó là
lập trường của Tiến sĩ Francis Collins, Giám đốc Dự án Giải mã Gen
người, là một trong những nhà khoa học hàng đầu thế giới. Trong bài viễn
văn công bố bản đồ Gen chứa toàn bộ các ADN, Tổng thống Bill Clinton đã
vui mừng tuyên bố: “Ngày hôm nay, chúng ta được hiểu về loại ngôn
ngữ mà Chúa đã sử dụng để sáng tạo nên sự sống. Hơn bao giờ hết, chúng
ta nghiêng mình trước sự phức tạp, trước vẻ đẹp và sự kỳ diệu của món
quà thần thánh nhất, thiêng liêng nhất của Ngài”.
Lạ thay, một chính khách hàng đầu trên thế giới mà lại đề cập đến vẻ huyền nhiệm thiêng liêng trong một công trình khoa học như thế. Nhưng lạ hơn nữa là phản ứng của Tiến sĩ Collins khi phát biểu: “Riêng
với tôi, thật tuyệt vời và đáng kinh ngạc khi biết rằng lần đầu tiên
chúng ta đọc được cuốn sách chỉ dẫn về chính bản thân mình, cuốn sách mà
trước đó duy chỉ có Chúa mới biết đến”. Collins còn cho biết: “Với
tôi, trải nghiệm của việc sắp xếp trình tự Gen người và khám phá ra bí
mật đáng lưu tâm nhất trong tất cả này, vừa là một thành tựu đáng kinh
ngạc của khoa học, vừa là dịp thể hiện tình yêu với Chúa”. Ông còn xác tín mạnh mẽ: “Tin
vào Chúa là một sự lựa chọn hoàn toàn lý trí, và rằng, trong thực tế,
các nguyên lý của đức tin lại bổ sung cho các nguyên lý của khoa học”[1][1].
Vấn đề nêu trên quan trọng đến nỗi có cả một Thông Điệp về Đức Tin và Lý Trí (Fides et ratio), của Đức Gioan Phaolô II. Ngài mở đầu Thông điệp như sau: “Đức tin và Lý trí
được ví như đôi cánh giúp tâm trí con người vươn cao lên trong sự chiêm
nghiệm chân lý. Chính Thiên Chúa đã in đặt nơi tâm khảm con người ước
vọng tìm biết chân lý để cuối cùng con người được nhận biết Thiên Chúa,
ngõ hầu nhờ nhận biết và yêu mến Người, con người sẽ đạt thấu được sự
thật về mình cách đầy đủ”.
Thánh Augustinô tuyên bố đức tin soi sáng tâm trí và giúp cho lý trí nắm bắt được những chân lý nền tảng về toàn bộ thực tại: “Tôi tin để hiểu và tôi hiểu để tin”[2][2]. Nói cách khác, “đức tin luôn đòi hỏi kiếm tìm hiểu biết những gì đã tin”[3][3]. Chính ân sủng đức tin mở “mắt tâm hồn” (Ep
1, 18). Theo Augustinô, đức tin không ngược lại lý trí, nhưng có trước
lý trí và vượt trên lý trí. Đức tin kích hoạt trí tuệ tiếp tục đi sâu
vào mầu nhiệm: “Tôi sẽ không tin nếu tôi không nhận thấy rằng tôi phải tin”.
Tương tự, thánh Tôma Aquinô cũng chủ trương rằng: “Tin là hành vi của trí tuệ gắn bó với chân lý của Thiên Chúa, dưới sự điều động của ý chí được ân sủng của Thiên Chúa lay động”[4][4].
Tự lý trí bẩm sinh đòi hỏi sự hướng đạo và hỗ trợ của đức tin tôn giáo
để đạt được chân lý một cách trọn vẹn. Trong lúc tin, trí tuệ rõ ràng đã
đồng ý bằng hành động của ý chí. Tin là “suy tư với sự đồng ý.”
Trong tri thức khoa học, trí tuệ cũng đồng ý với những tuyên bố xác
định. Nhưng trong đức tin, sự quyết định đồng ý đến từ ý chí. Do đó, đức
tin đích thực không bao giờ chỉ là một tri thức suông, vì người ta có
thể biết mà không tin. Thật vậy, “Không bao giờ có ai tin theo Đạo chỉ vì lý luận hay chứng cứ, cho dù chúng hợp lý đến đâu chăng nữa” (Gabriel Marcel).
Nhưng
rồi không thể tin nếu không cảm nghiệm hay chẳng có một dấu hiệu khả
tín nào. Thánh Tôma cho rằng lý trí có thể đạt tới những chân lý cơ bản
nào đó về sự hiện hữu và bản tính của Thiên Chúa, nhưng đức tin thì làm
cho việc nắm bắt những chân lý này trở nên vừa chắc chắn vừa khả hữu
hơn. Hơn nữa thánh Tôma còn nghĩ rằng, để hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa
và con đường đi tới sự cứu rỗi sau cùng của loài người thì cần phải có
đức tin trong trạng thái mặc khải thiêng liêng. Một đức tin như thế, là
quà tặng từ ân sủng của Chúa. Điều đó giải thích vì sao đức tin, cùng
với hy vọng và lòng bác ái, được coi là một đức hạnh siêu nhiên hoặc
thuộc về thần học.
Như vậy:
"Nếu con người với trí thông minh không nhận ra Thiên Chúa là Ðấng Sáng
Tạo mọi sự, không phải vì họ thiếu phương tiện tìm hiểu, nhưng vì ý
muốn tự do và tình trạng u tối do tội lỗi của họ cản đường" (Fides et ratio, 19).
5. Hai nguồn nhận thức nơi con người
Tựu chung, chúng ta có hai cách để biết: đức tin và lý trí. Ðức tin là biết qua sự tin tưởng. Lý trí là biết qua suy nghĩ, quan sát, thực nghiệm hay kinh nghiệm cá nhân.
Sự hiểu biết nhờ lý trí mà thôi thì quá giới hạn. Cả hai cần phải cùng
nhau phát triển. Các khoa học gia phải lệ thuộc vào niềm tin tự nhiên.
Họ phải tin tưởng nhau. Mỗi khoa học gia không có thì giờ và tài nguyên
để tự mình kiểm chứng tất cả mọi thí nghiệm và đo lường. Họ phải tin vào
những bài viết về khoa học. Vậy niềm tin là kiến thức được nuôi dưỡng
bằng sự liên hệ cá nhân, và chúng ta cần có niềm tin. Trong khoa học
niềm tin này được nuôi dưỡng bằng “cộng đồng khoa học”. Niềm tin này
không phải là một “bước mù quáng” nhưng được hỗ trợ bằng lý trí. Những
bài viết trên các sách báo khoa học được duyệt xét cẩn thận bởi các khoa
học gia khác. Nếu một khoa học gia nào có bằng chứng là thiếu lương
thiện, thì niềm tin này bị tan vỡ, và công việc của người đó bị mất tín
nhiệm.
Đức tin cũng thúc đẩy chúng ta theo đuổi lý trí: "Chính
đức tin sẽ thúc giục lý trí vượt thoát tình trạng cô lập và tù túng để
thong dong theo đuổi những gì là chân, thiện, mỹ. Ðức tin đúng là trạng
sư đại tài, và là nhà biện hộ giúp cho lý trí thắng cuộc" (Fides et
ratio, 56). Không có điều căn bản là niềm tin, chẳng ai muốn bỏ giờ ra
nghiên cứu vũ trụ và những điều cơ bản của vật chất. "Cũng chính một
Thiên Chúa duy nhất, Ðấng thiết lập và đảm bảo tính khả tri cũng như
tính hữu lý vẫn tàng chứa trong các sự vật thuộc trật tự tự nhiên, dựa
vào đó mà các nhà khoa học có thể yên tâm truy cứu các nghĩa lý” (Feides et ratio, 34).
Chú thích số 29 của Thông điệp cho biết: "Thánh
Kinh và thế giới tự nhiên đều tiến hành cách bình đẳng từ Lời Thiên
Chúa, Thánh Kinh được Chúa Thánh Thần viết, thế giới tự nhiên thừa hành
cách trung tín lề luật của Thiên Chúa". Thiên Chúa đó chính là Cha Đức Giêsu Kitô. Và như thánh Phaolô đã xác quyết: “Sự thật ở nơi Đức Giêsu” (x. Ep 4, 21): Ngài là Lời hằng hữu, Lời tạo thành mọi vật, cũng là Lời nhập thể,
Đấng mặc khải Chúa Cha trong trọn cả ngôi vị của mình (x. Ga 1, 14.
18), là Đấng mà lý trí con người vẫn tìm kiếm nhưng không biết (x. Cv
17, 23).
"Mặc
dầu đức tin, một món quà Thiên Chúa ban, không đặt nền tảng trên lý
trí, nhưng chắc chắn không thể không cần đến lý trí. Trái lại cũng phải
thấy rõ rằng, lý trí cần phải được đức tin củng cố năng lực cho thì mới
có thể khám phá ra những chân trời xa rộng mà tự sức riêng nó không sao
đạt thấu được." (Fides
et ratio, 67). Lý trí có thể mở trí khôn cụ thể của chúng ta ra để rồi ý
chí chúng ta dễ đón nhận ân sủng của đức tin siêu nhiên. Lý trí cũng
giúp đức tin không sa vào mê tín dị đoan, và có thể phê phán đức tin của
chúng ta: "Thật là hão huyền khi nghĩ rằng đức tin đi đôi với một lý
trí yếu ớt, mà lại có thể trở nên thâm hậu hơn; ngược lại là đàng khác,
đức tin ấy sẽ tàn rụi dần để chỉ còn là hoang tưởng hoặc mê tín mà
thôi”. (Fides et ratio, 48).
Một
lạc giáo liên quan đến đức tin là thuyết "Duy Tín", cho rằng đức tin
siêu nhiên thì quá trổi vượt trên lý lẽ tự nhiên đến nỗi lý trí không có
ích gì cho đức tin. Tiếc thay Thuyết Duy Tín làm cho đức tin trở nên
một sự tin tưởng mù quáng. Thánh Phêrô cho thấy lý trí có thể giúp chúng
ta giải thích đức tin một cách hay hơn cho những người không có cùng
một niềm tin như chúng ta: "Anh em hãy luôn sẵn sàng giải thích cho
bất cứ ai hỏi anh em về lý do của niềm hy vọng của anh em, nhưng hãy làm
điều đó với sự khoan dung và kính cẩn" (1 Pr 3:15-16). Cũng thế,
đức tin siêu nhiên có thể cung cấp cho lý trí một sức sinh động và mới
mẻ (x. Fides et ratio, 48). Ðức tin có thể giải thoát lý trí khỏi sự lệ
thuộc hoàn toàn vào cảm quan. Như trong khoa học, đức tin có thể thúc
đẩy chúng ta theo đuổi các lý lẽ xa hơn nữa để thu lượm được nhiều kiến
thức.
Tóm lại: "Giáo
hội vẫn luôn thâm tín rằng đức tin và lý trí hỗ trợ lẫn cho nhau; chúng
ảnh hưởng lẫn nhau khi trao đổi những phê phán làm cho nhau thêm tinh
tuyền, và khuyến khích nhau trong việc theo đuổi tìm kiếm để hiểu biết
sâu xa hơn” (Fides et ratio, 100).
6. Tương quan giữa triết học và thần học
Sự
quan hệ giữa đức tin và lý trí cũng là sự quan hệ giữa triết học và
thần học. Triết học là một khối kiến thức được xắp xếp có thứ tự để giải
thích một điều gì. Tương tự như lý trí, nó bắt đầu từ cảm quan. Còn
thần học cũng là một khối kiến thức nhằm mục đích giải thích một điều
gì, nhưng nó bắt đầu từ Lời Chúa mặc khải. Nó liên quan đến cả đức tin
lẫn lý trí. Vì hai môn học đó bắt nguồn từ hai khởi điểm khác nhau, nên
chúng cũng khác nhau. Nhưng chúng ta có thể dùng cả hai để hiểu thêm về
Thiên Chúa. Dựa vào thế giới tự nhiên dễ hiểu, triết học có thể dùng lý
luận để chứng minh rằng có Thiên Chúa như là một Nguyên Lý Tuyệt Ðối.
Nhưng triết học không thể biết gì về mầu nhiệm Thiên Chúa. Chỉ nhờ mặc
khải và thần học mà chúng ta mới hiểu biết hơn về Thiên Chúa là Chúa Ba
Ngôi. Cuối Thông điệp Fides et ratio, Đức Gioan Phaolô II đã vạch ra một
số dòng tư tưởng triết học hiện đại mà trên căn bản có tính cách sai
lạc:
Trước hết là “Thuyết Chiết Trung”:
một phương thức vay mượn tư tưởng từ nhiều triết lý khác nhau, cố dung
hòa một cách máy móc các quan điểm khác hẳn nhau, mà không quan tâm đến
sự thích hợp hay mạch lạc nội tại của chúng. Nó là “một mớ tư tưởng hỗn
tạp”.
Thứ nhì, “Thuyết Duy Sử” cho rằng không có chân lý nào vượt thời gian cả. Một điều đúng ở giai đoạn lịch sử này có thể sai ở giai đoạn lịch sử khác.
Đó cũng là não trạng duy tương đối, một thứ độc tài về cảm thức luân
lý. Cuối cùng sự hiện hữu của Thiên Chúa cũng chỉ là tương đối: có thể
có, có thể không, tùy vào sự đoán định chủ quan của cá nhân hay tập thể
trong một bối cảnh hay giai đoạn nào đó thôi.
Thứ ba là thuyết “Duy Khoa Học”, tương tự như thuyết Duy Lý và thuyết Duy Nghiệm. Những chủ trương này coi khoa học, lý trí và thực nghiệm như nền tảng để quyết đoán mọi sự trong cuộc sống. Hai
trận thế chiến là kết quả hiển nhiên bởi sự thống trị của lý trí duy
khoa học thực nghiệm, là một thứ lý trí không có tiêu chuẩn đạo đức hay
tôn giáo, cắt xén phần tâm linh, nên đã làm cuộc sống con người trở nên
què quặt, bạc nhược, càng ngày càng hỗn loạn và đau thương, vì cảm thấy
chính mình cũng trở thành một công cụ sản xuất. Đó
là chưa nói tới vấn đề môi trường, vấn đề ADN, là những mặt tối của
khoa học kỹ thuật. Khi bài xích tôn giáo và nói riêng Kitô giáo, người
ta đã tôn vinh Khoa học kỹ thuật như một thứ tôn giáo mới, từ đó phát
sinh hiện tượng vô thần dưới nhiều hình thức.
Thứ tư là “Thuyết Duy Thực”,
rất phổ thông ở Anh Quốc và Hoa Kỳ, chỉ dựa trên kết quả và sự thực
dụng. Tất cả những cân nhắc có tính cách lý thuyết đều bị bác bỏ. Bất cứ
hành động nào đem lại kết quả mong muốn đều là hành động tốt. Đây là
một quan niệm chỉ nhằm vào thế giới này, không muốn biết tới gì khác, vì
cho rằng con người chỉ nhận thức và lý giải được thế giới trước mắt,
còn tự tính của nó thế nào thì con người không thể vươn tới.
Sau hết tất cả những triết thuyết trên đưa đến “Thuyết Hư Vô”.
Ðó là việc chối bỏ nhân phẩm và số phận đời đời của con người. Hư vô là
một kết luận hợp lý cuối cùng và chân thật rằng không có Thiên Chúa
chúng ta không là gì cả. Ðó là sự tuyệt vọng của thuyết vô thần. Những
triết thuyết này có khuynh hướng chối từ sự cần thiết Thiên Chúa và
tuyên xưng một sự tự lập giả tạo. Đức Gioan Phaolo II đã khẳng định: “Vì
thế giới được tạo dựng không thể tự đủ cho mình, mọi ảo ảnh về tự lập
trong đó chối từ sự lệ thuộc cần thiết vào Thiên Chúa của mọi tạo vật -
kể cả loài người - đều đưa đến những hoàn cảnh bi đát làm tan vỡ việc
tìm kiếm hợp lý sự hòa hợp và ý nghĩa của đời sống con người” (Fides et ratio, 80).
Kết luận
Tóm
lại, tin không phải là biết, dù nó cần đến sự hiểu biết trong đức tin.
Đức tin không thuộc lãnh vực tri thức khoa học, nhưng tin cũng bao hàm
một cách thế nhận thức ở bình diện khác, vì “sự chắc chắn do ánh sáng của Thiên Chúa ban thì lớn lao hơn sự chắc chắn do ánh sáng tự nhiên của lý trí”[5][5].
Tin
là đáp lại một tiếng gọi để vươn xa hơn, cao hơn chính bản thân; là
bước đi rộng hơn lãnh vực khả giác, khả tri và khả nghiệm. Tin
là một thái độ của con người toàn diện quyết định vượt xa hơn mọi thực
tại hữu hình, mọi lý luận phàm trần, để dấn thân trọn vẹn cho một lẽ
sống mới, trong tương quan huyền nhiệm với Đấng Tuyệt Đối. Lý
trí và đức tin đều nằm trong tiến trình vươn lên của đời sống làm người
về mọi phương diện, một đời sống rất thực tế nhưng cũng rất huyền
nhiệm, bởi vì con người được dựng nên cho chính Chúa.
Trong chiều sâu của đời sống nhân-linh, không chỉ có cái biết của lý
trí, nhưng còn là cái biết của con tim, cái biết của một tình yêu khao
khát tìm về với Đấng Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ. Đó mới là khát vọng
thâm sâu của mỗi người, mà mọi hiểu biết trong cuộc sống này cuối cùng
phải dừng lại, để nhường bước cho đức tin mở ra một dự phóng siêu vượt. Lý
trí có thể đưa chúng ta đến bên bờ của đức tin, rồi để mặc chúng ta ở
đấy. Không phải lý trí bỏ rơi chúng ta nhưng lý trí không thể giúp chúng
ta vượt qua được mép bờ huyền nhiệm của đức tin. Ðứng trên mép bờ huyền nhiệm ấy, tác động thích hợp duy nhất là tâm tình yêu mến và phó thác. Với
tâm tình phó thác và yêu mến, đức tin cho ta thấy những điều mà người
khác không thấy, hiểu những điều mà người khác không hiểu, biết những
điều mà người khác không biết, kinh nghiệm những điều mà người khác
không hề kinh nghiệm, cảm nếm những điều mà người khác không hề cảm nếm,
làm những điều mà người khác không thể làm, sống những điều mà người
khác không thể sống. Vì đức tin là huyền nhiệm của ân sủng, là tác động
và sự sống của Chúa trong tâm hồn những kẻ tin. Lạy Chúa, mọi sự bởi Chúa mà ra, mọi loài do Chúa mà có, mọi việc nhờ Chúa mà thành. Tất cả cuộc sống con đều là ân ban của Chúa. Nhưng rồi nhiều khi con phát triển cuộc sống như thể chỉ dựa vào chính mình. Con quên rằng chính Chúa không ngừng tiếp tục sáng tạo và làm nên cuộc sống con trong từng giây phút. Với
lý trí, con hay sống đức tin chỉ bằng sự hiểu biết của mình, nhưng đã
không hiểu biết như mình phải hiểu biết. Con vẫn tin, nhưng đã không tin
như mình phải tin. Hóa ra hiểu biết con vẫn còn non dại và đức tin con
vẫn còn non kém. Con muốn
khẳng định về cuộc sống mình như thánh Phaolô: “Tôi không muốn biết đến
chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô”. Đó là sự hiểu biết trong đức tin,
với hết lòng yêu mến và phó thác.
Xin
Chúa nâng đỡ và gia tăng đức tin cho con, để con có thể thấy Chúa mọi
nơi, nhận ra Chúa trong mọi người, sống với Chúa trong mọi lúc, đón nhận
Chúa trong mọi sự. Để trong Chúa con được no thỏa sự sống muôn đời.
Amen.
Lm. Thái Nguyên
(Theo trang TÌNH YÊU ĐỨC KITÔ)
[1][1] Francis Collins, Ngôn ngữ của Chúa. Những bằng chứng khoa học về đức tin, NXB Lao Động, Hà Nội, 2007, tr. 12-17.
[2][2] Auugustinô, Serm. 43, 7, 9.
[3][3] Anselmô, Prologion 1.
[4][4] Tôma Aquinô, Tổng luận thần học, II-II. q.2,a.2.
No comments:
Post a Comment