Monday, January 2, 2017

CÁC GIÁM MỤC ARGENTINA 

NHỮNG TIÊU CHUẨN CĂN BẢN 

ĐỂ ÁP DỤNG CHƯƠNG VIII AMORIS LAETITIA

Các Giám Mục của mười một Giáo Phận giáo miền Buenos Aires của Argentina, ngày 5-9-2016, đã ra một bản 10 tiêu chuẩn căn bản để giúp các linh mục áp dụng mục vụ chương VIII của Tông Huấn Amoris Laetitia cho những tín hữu đang sống trong tình trạng hôn nhân bất quy tắc.

Sau khi nhận được văn bản này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã viết thư chứng nhận sự đúng đắn, với lời khen ngợi: “Bản văn thật rất tốt đẹp và đã diễn tả chính xác ý nghĩa của chương VIII Amoris Laetitia. Không có những giải thích nào khác".

Dưới đây là văn bản đầy đủ của mười tiêu chuẩn, được kèm theo những bình giải, với hy vọng góp phần giúp học hỏi nhiều hơn về chương VIII của Tông Huấn Amoris Laetitia cùng với những ứng dụng phù hợp.

 

NHỮNG TIÊU CHUẨN CĂN BẢN
ĐỂ ÁP DỤNG CHƯƠNG VIII AMORIS LAETITIA
Các linh mục kính mến,
Chúng tôi rất vui mừng đón nhận Tông Huấn Amoris Laetitia, vốn đòi hỏi chúng ta trước hết là khích lệ tình yêu vợ chồng và giúp những bạn trẻ chọn kết hôn và gia đình. Đây là những vấn đề lớn mà chúng ta không được lơ là hay quên sót bởi vì những vấn đề khác. Đức Phanxicô đã mở ra một cánh cửa khác trong lãnh vực mục vụ gia đình và chúng ta được kêu gọi hãy tận dụng thời gian của lòng thương xót và đón nhận nó.

Chúng ta sẽ tập trung chỉ vào chương VIII, vì nó đề cập tới “Những hướng dẫn của Giám Mục” (300) để biện phân các khả thể đón nhận các Bí Tích của một số “người ly dị đang sống trong một kết hợp mới”. Chúng tôi nghĩ thật là đúng đắn khi những Giám Mục trong cùng miền mục vụ có chung nhau một cách tối đa nhất về một số tiêu chuẩn. Chúng tôi không tước bỏ bất cứ thẩm quyền của các Giám Mục của những Giáo phận đối với khả thể làm chúng được rõ ràng chính xác hơn, bổ túc cho chúng được đầy đủ hoặc điều chỉnh chúng lại.


Bình giải:
Tông Huấn Amoris Laetitia kêu gọi "Các linh mục có bổn phận phải “đồng hành [với người ly dị và tái hôn] trong việc giúp đỡ họ, hiểu rõ hoàn cảnh của họ theo giáo huấn của Giáo Hội và các hướng dẫn của giám mục" (Cf. 300). Ý thức bổn phận mình, các Giám Mục Giáo miền Buenos Aires của Argentina đã cùng nhau soạn thảo những quy tắc căn bản hướng dẫn mục vụ chung cho các Giáo phận. Tuy nhiên những quy tắc này, như các ngài đã nói, vẫn tôn trọng thẩm quyền riêng của các Giám Mục riêng biệt, không có tính cách áp đặt buộc phải chấp nhận. Những tiêu chuẩn hướng dẫn đưa ra có vẻ ngắn gọn súc tích, và cũng là những điểm đã được đồng thuận một cách tối đa bởi các Giám Mục. Tất nhiên cũng có những điểm khác chưa được sự đồng thuận nhưng đã không được đưa vào đây.. Mỗi Giám Mục có thể dùng quyền lãnh đạo trong giáo phận để đưa ra những tiêu chuẩn mục vụ khác, có thể là rõ ràng chính xác hơn, được bổ túc đầy đủ hoặc chỉnh sửa lại", để hướng dẫn việc mục vụ trong giáo phận riêng mình.
Và dĩ nhiên, các Giám Mục khác trên thế giới có thể tham khảo thập điều hướng dẫn này để soạn thảo một hướng dẫn riêng cho giáo phận.

1)Trước tiên, chúng ta nên nhớ rằng nếu nói là "cho phép" để đến với các Bí Tích là không thích hợp, nhưng là một tiến trình biện phân dưới sự hướng dẫn của một mục tử. Đây là một sự biện phân "riêng tư cá nhân và mục vụ".
Bình giải:
Không được nói là "cho phép" trong số (1) này là một ghi chú quan trọng để tránh hiểu lầm. Những tiêu chuẩn được đưa ra nhằm hướng dẫn áp dụng Amoris Laetitia vào những hoạt động mục vụ của các linh mục đối với những người ly dị tái hôn. Chúng giúp các ngài giải thích, khuyên bảo cho từng trường hợp ly dị tái hôn riêng biệt, chứ không là những tiêu chuẩn để “cho phép” lãnh  Bí Tích một cách chung. Điều này tương hợp với tuyên bố của Tông Huấn: "cả Thượng Hội Đồng lẫn Tông Huấn này đều không có hy vọng cung cấp được một loạt các qui định tổng quát mới, có bản chất giáo luật và có thể áp dụng cho mọi trường hợp." (AL,300).

2) Trong hành trình này, mục tử nên nhấn mạnh đến sự loan báo nền tảng, kerygma, để đẩy mạnh hoặc đổi mới cuộc gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô sống động (Cf. 58).
Bình giải:
Trọng tâm của công việc mục vụ này cần phải hướng đến chính đời sống đạo đức của tín hữu, chứ không ở việc lãnh nhận các Bí Tích. Đó là làm sao cho họ gặp gỡ được Đức Kitô một cách sống động trong cuộc sống. Họ sẽ gặp gỡ Đức Kitô làm sao được nếu Giáo Hội hay chính các mục tử không cho họ thấy rõ tình trạng của họ và sự yêu thương tha thứ vô biên của Ngài. Vì vậy, Tông Huấn kêu gọi các mục tử hãy: "Không những họ không nên tự coi mình như bị tuyệt thông, mà họ còn cần được sống và lớn mạnh như các chi thể sống động của Giáo Hội, cảm nghiệm Giáo Hội như mẹ hiền vẫn đang đồng hành với họ, săn sóc họ một cách âu yếm, và khích lệ họ trên đường đời và đường Tin Mừng. Việc hội nhập này cũng cần thiết đối với việc săn sóc và giáo dục con cái họ, vốn phải được coi là quan trọng nhất" (AL, 299).

3) Đi kèm việc mục vụ là thực hiện “via caritatis” (con đường bác ái). Đó là một mời gọi đi theo "con đường của Đức Giêsu, con đường của lòng thương xót và hòa nhập" (296). Con đường này kêu gọi sự yêu thương mục vụ của linh mục đón nhận hối nhân, chăm chú  lắng nghe họ và tỏ bày cho họ khuôn mặt từ mẫu của Giáo Hội, đồng thời đón nhận những ý định ngay thẳng và thiện chí của họ trong việc đặt cả cuộc đời dưới ánh sáng của Tin Mừng và thực thi bác ái (Cf. 306).

Bình giải:
Để thực hiện tốt công việc mục vụ này, các mục tử được mời gọi đi theo con đường yêu thương phục vụ của Đức Kitô, bằng sự kiên nhẫn lắng nghe, đón nhận những “ý định ngay thẳng và thiện chí của họ”. Ngược lại, mục tử cần tránh những sự xa rời, lơ là, coi thường hay coi họ như những tội nhân không thể được tha thứ. Tuyệt đối không được áp đặt trên họ những điều nặng nề hơn, như những ngăn cấm, được dùng như những biện pháp phạt vạ để răn đe tội phạm.

4) Hành trình này không nhất thiết dẫn đến đón nhận các Bí Tích, nhưng dẫn đến những dạng thức khác của sự hội nhập đúng đắn vào đời sống Giáo Hội: hiện diện sống động trong cộng đoàn, tham gia vào những nhóm cầu nguyện hay suy gẫm, dấn thân vào những hoạt động của Giáo Hội v.v. (Cf. 299).
Bình giải:
Số (4) khẳng định theo Amoris Laetitia rằng con đường mục vụ không nhất thiết dẫn các tín hữu đến việc lãnh nhận các Bí Tích, nhưng bằng những cách thức khác để làm sao các hữu ly dị tái hôn được hội nhập vào đời sống Giáo Hội một cách sinh động hơn và tăng triển đời sống đạo đức. Đây mới chính là điều Tông Huấn quan tâm hơn cả, như Đức Phanxicô diễn tả:
Tôi nhất trí với nhiều nghị phụ Thượng Hội Đồng khi nhận định rằng “Những người đã rửa tội ly dị và tái hôn dân sự nên được hội nhập nhiều hơn vào các cộng đồng Kitô Giáo theo nhiều cách có thể, tránh mọi dịp gây gương xấu. Luận lý học của việc hội nhập này là chìa khóa cho việc đồng hành mục vụ với họ, không những để họ thấy họ vẫn thuộc về Nhiệm Thể Chúa Kitô là Giáo Hội, mà còn để họ có được một cảm nghiệm hân hoan và sinh hoa trái trong Nhiệm Thể ấy. Họ là người đã rửa tội, họ là anh chị em, Chúa Thánh Thần tuôn đổ các ơn phúc và đặc sủng vào trong họ để sinh ích cho mọi người (Cf. 299).

5) Khi nào mà những hoàn cảnh cụ thể của đôi bạn có thể được, và đặc biệt cả hai đều là Kitô hữu đang cùng đi trên con đường Đức tin, đề nghị họ sống tiết dục. Amoris Laetitia không hề không biết đến những khó khăn của chọn lựa này (Cf. Ghi chú 329) nên mở ra cho họ khả thể được đón nhận Bí Tích Giải Tội nếu đôi bạn không giữ được đề nghị này (Cf. Ghi chú 364, nhắc lại giáo huấn mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gởi cha Hồng Y W. Baum, ngày 22-3-1996).
Bình giải:
Đề nghị sống tiết dục để tránh tội vẫn là điều cần thiết, nhất là khi cả đôi bạn đều đang sống đức tin Công Giáo. Tuy nhiên, khi không thể thực hiện được việc tiết dục vì lý do nào đó, như sự chung thủy sẽ gặp nguy cơ và gây thiệt hại cho con cái, họ vẫn có thể được lãnh nhận Bí Tích Giải Tội. Ghi chú số 329 được nêu ra để biện minh cho giải pháp này:
Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22-11-1981), 84: AAS 74 (1982), 186. Trong những hoàn cảnh như thế, nhiều người, tuy biết và chấp nhận khả thể sống “như anh trai em gái” mà Giáo Hội đề xuất với họ, nhưng đã nhấn mạnh rằng nếu một số cách phát biểu sự thân mật không có, “thì lòng chung thủy thường gặp nguy cơ và gây thiệt hại tới lợi ích con cái” (Gaudium et Spes, 51).
Ngay cả trong hoàn cảnh mà việc không tiết dục có thể là một tội nặng, phải cần chừa bỏ, thì tội nhân có lòng hoán cải vẫn có thể được nhận lãnh Bí Tích Thống Hối sau mỗi lần sa ngã, nhờ vào lòng thương xót tha thứ vô biên của Thiên Chúa, vượt trên cả những luật lệ, chiếu theo chỉ dẫn của Ghi chú số 364: 
Có lẽ vì một tính bối rối nào đó, được che dấu dưới lòng nhiệt thành muốn trung thành với sự thật, một số linh mục yêu cầu nơi các hối nhân một mục đích cải sửa quá thiếu sắc thái đến nỗi khiến lòng thương xót bị che mờ bởi việc mưu cầu điều được coi là công lý tinh tuyền. Vì lý do này, sẽ là điều hữu ích nếu nhớ tới giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II, vị đã quả quyết rằng khả thể sa ngã trở lại “không nên gây hại tới tính chân chính của giải pháp” (Thư gửi Đức Hồng Y William W. Baum nhân dịp Khóa Học về Tòa Trong do Tông Tòa Xá Giải tổ chức [22-3-1996], 5: Insegnamenti XIX/1 [1996], 589).
Cũng nên thấy rằng số (5) này chỉ có ý nói đến sự cố gắng tiết dục và trong trường hợp vì lý do nào đó không giữ được hoặc vì yếu đuối sa ngã phạm tội thì có thể thống hối lãnh nhận Bí Tích Giải Tội. Số này có ý cho thấy việc lãnh nhận Bí Tích Giải Tội được mở ra rất rộng rãi, nhưng chưa nói đến vấn đề lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể. Số (6) sẽ bổ túc vấn đề này.  
Thật ra, sự lãnh nhận Bí Tích Giải tội mà không dẫn đến lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể vẫn là điều rất cần thiết để người tín hữu đặt lương tâm mình trước mặt Chúa, nhận ra lỗi phạm của mình đồng thời nhận ra tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa, không những đối với tội tái hôn mà còn nhiều tội khác nặng nhẹ trong cuộc sống. Nhờ đó họ được ơn sức mạnh canh tân, hoán cải cuộc sống;  can đảm đặt cả cuộc đời dưới ánh sáng của Tin Mừng, thực thi bác ái và hội nhập đúng đắn vào đời sống Giáo Hội.

6) Trong những trường hợp khác phức tạp hơn, và khi không thể đạt được sự công bố hôn nhân vô hiệu, lựa chọn vừa nói trên thực tế vẫn không thể thực hiện được.  Điều đó, tuy vậy, vẫn có thể được bằng con đường biện phân. Trong một trường hợp riêng biệt, Amoris Laetitia mở ra cho họ khả thể đến với Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể (Cf. Ghi chú 336 and 351) nếu như nhận biết là có những giới hạn của cá nhân khiến làm giảm khinh trách nhiệm và tội lỗi (Cf. 301-302), đặc biệt khi một người thấy rằng họ sẽ gây ra điều xấu hại đến con cái của sự kết hợp mới. Những bí tích này, đến lượt mình, trợ giúp cho người đó tiếp tục tiến trình trưởng thành và tăng triển trong sức mạnh của ân sủng.
Bình giải:
Trong những trường hợp khó khăn phức tạp hơn mà người ly dị tái hôn trong thực tế vẫn không thể giữ được sự tiết dục thì con đường biện phân vẫn có thể giúp họ được lãnh nhận các Bí Tích. Trong một số trường hợp riêng biệt nào đó, họ có thể lãnh nhận Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể nếu họ có những hạn chế về hành vi nhân linh khiến tội được giảm khinh trách nhiệm và tội lỗi, theo như chỉ dẫn của Ghi chú số 336 and 351:
Hai ghi chú này được nêu ra như là lý lẽ nền tảng của sự mở ra cho nhận các Bí Tích: a- Có thể là không có tội trọng; b- Sự yêu thương tha thứ của Thiên Chúa thể hiện qua Bí Tích Giải Tội và sự nâng đở của Bí Tích Thánh Thể cho kẻ yếu đuối bệnh tật.
Số 336 nói đến việc có thể không có lỗi nghiêm trọng trong hoàn cảnh riêng biệt thực tiễn nào đó.
336. Đây cũng là trường hợp liên quan tới kỷ luật bí tích, vì việc biện phân có thể nhận ra có những hoàn cảnh đặc thù trong đó không có lỗi nghiêm trọng. Trong những trường hợp như thế, có thể áp dụng điều tìm thấy trong các văn kiện khác: xem Evangelii Gaudium (24-11-2013), 44 và 47: AaS 105 (2013), 1038-1040.
Ghi chú số 351 nhắc nhớ đến lòng thương xót Chúa, phi bác những quan điểm sai lầm, tiêu cực về Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể.
351. Trong một số trường hợp, điều này có thể bao gồm sự trợ giúp của các bí tích. Do đó, “tôi muốn nhắc nhở các linh mục điều này: không được coi tòa giải tội như phòng tra tấn, mà đúng hơn là nơi gặp gỡ với lòng thương xót của Chúa” (Tông Huấn Evangelii Gaudium [24-11-2013], 44: AAS 105 [2013], 1038). Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng Phép Thánh Thể “không phải là một phần thưởng cho người hoàn hảo, nhưng là một món thuốc và món ăn mạnh mẽ cho người yếu đuối” (Như trên, 47: 1039).
Ghi chú số 351 vừa kể trên cho thấy khả thể lãnh nhận Bí Tích Giải Tội nhờ lòng thương xót của Chúa và khả thể nhận Bí Tích Thánh Thể nơi các người yếu đuối, tức là, những tội nhân vì yếu đuối nên cứ sa đi ngã lại cho dù đã có cố gắng vươn lên.
Số (6) muốn nói rõ hơn về tình trạng có thể không có tội, do sự giảm khinh: "có những giới hạn của cá nhân khiến làm giảm khinh trách nhiệm và tội lỗi (Cf. 301-302), đặc biệt khi một người thấy rằng họ sẽ gây ra điều xấu hại đến con cái của sự kết hợp mới."  Hai số 301 và 302 của Amoris Laetitia giúp cho thấy điều đó.
Tông Huấn số 301 nhắc đến yếu tố giảm khinh tội lỗi:
Giáo Hội sở đắc cả một tổng hợp suy tư chắc chắn liên quan tới các nhân tố và hoàn cảnh giảm khinh. Do đó, không thể đơn giản nói rằng tất cả những người trong bất cứ hoàn cảnh “bất hợp lệ” nào đều đang sống trong tình trạng tội trọng hay không có ơn thánh hóa.
Tông Huấn số 302 nhắc lại những nguyên tắc luân lý căn bản về sự quy trách nhiệm của lỗi phạm, như sau:
"Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nhắc đến các nhân tố này một cách rõ ràng: 'việc quy tội và việc chịu trách nhiệm đối với một hành động có thể được giảm thiểu hay thậm chí triệt tiêu vì do không biết, vô ý, bị cưỡng ép, sợ hãi, thói quen, quyến luyến vô trật tự và các nhân tố tâm lý hay xã hội khác' (343). Trong một đoạn khác, Sách Giáo Lý một lần nữa nhắc đến 'sự thiếu chín chắn về cảm giới, sức mạnh của thói quen đã mắc phải, các tình trạng lo âu xao xuyến hay các nhân tố tâm lý hay xã hội khác làm giảm khinh hay thậm chí xóa hẳn tính quy trách luân lý”(AL, 302).
Như vậy, số (6) mở ra khả thể lãnh nhận Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể cho một số trường hợp phức tạp mà trong thực tế người ly dị tái hôn không thể chọn sống tiết dục. Tuy nhiên, khả thể này lại dựa trên biện phân cho từng trường hợp cá nhân cụ thể riêng biệt với những yếu tố giảm khinh trách nhiệm và tội lỗi, chứ không đưa ra một sự cho phép chung.
Cũng nên bàn thêm về sự tiết dục đã được giáo huấn từ trước trong Giáo Hội. Theo nguyên tắc chung của Tông Huấn Familiaris Consortio số 84 ban hành bởi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, năm 1981, chỉ có thể lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể sau khi đã ăn năn, lãnh nhận Bí Tích Thống hối và đảm nhận việc tiết dục. Sau đó, năm 2000, Tuyên Bố của Hội Đồng Giáo Hoàng về các Văn Bản Lập Pháp với sự đồng thuận của Bộ Giáo Lý Đức Tin và Bộ Phụng Tự đã giải thích áp dụng Familiaris Consortio số 84 như sau:
Tuy nhiên, không được xem những tín hữu ly dị tái hôn là ở trong tình trạng tội trọng thường xuyên, những người mà không thể, vì những lý do nghiêm trọng - như là giáo dục con cái - 'thực hiện sự buộc phải chia tay, đảm nhận nghĩa vụ sống hoàn toàn tiết dục, nghĩa là tránh những hành vi dàng riêng cho vợ chồng' (FC, 84), và những người mà dựa trên nền tảng của ý định như vậy (e che sulla base di tale proposito) đã lãnh nhận Bí Tích thống hối. Bởi vì sự kiện sống của những tín hữu đó không sống như vợ chồng (more uxorio) tự nó là kín đáo, trong khi tình trạng sống của những người ly dị tái hôn tự nó là biểu hiện, họ chỉ có thể đến lãnh nhận Thánh Thể remoto scandalo".
Thấy rõ là Hướng dẫn áp dụng Amoris Laetitia của các Giám mục Argentina số (6) này, thật sự cũng rất phù hợp với nguyên tắc về vấn đề tiết dục mà Familiaris Consortio số 84 đã đề ra. Sự đòi buộc tiết dục vẫn là một điều kiện theo nguyên tắc chung được tôn trọng. Tuy nhiên nó được miễn trừ trong một số hoàn cảnh cụ thể "vì những lý do nghiêm trọng", như bản Tuyên Bố năm 2000 xác nhận.
Vấn đề cũng cần bàn thêm là sự lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể này có thể được thực hiện một cách công khai trong cộng đoàn hay không. Tông Huấn Amoris Laetitia và bản Hướng dẫn này cũng không đề cập đến. Tuy nhiên ở Amoris Laetitia số 299 Đức Phanxicô trong cũng đã xác định: "Tôi nhất trí với nhiều nghị phụ Thượng Hội Đồng khi nhận định rằng “Những người đã rửa tội ly dị và tái hôn dân sự nên được hội nhập nhiều hơn vào các cộng đồng Kitô Giáo theo nhiều cách có thể, tránh mọi dịp gây cớ vấp phạm".
Điểm chính cần lưu ý vẫn là "tránh mọi dịp gây cớ vấp phạm" chứ không phải là vấn đề công khai hay không. Ở một số nơi, người giữ đạo còn thưa thớt hoặc ở một thành phố đông người, ít có sự quen biết nhau giữa các tín hữu thì việc Rước lễ công khai trong nhà thờ giáo xứ cũng chẳng gây cớ vấp phạm bao nhiêu. Ngược lại, ở các giáo xứ giáo dân sống tập trung thì cớ vấp phạm dễ xảy ra hơn. Vì vậy, Tông Huấn vẫn giữ nguyên tắc "tránh mọi dịp gây cớ vấp phạm" khi cho tội nhân Rước lễ mà không nói có được Rước Lễ công khai hay không.

7) Nhưng cần phải tránh hiểu rằng khả thể này đơn giản như một lối “rộng” để đón nhận các Bí Tích, như là bất cứ hoàn cảnh nào đều biện minh cho lối này. Điều được đề nghị là sự biện phân để phân biệt thích đáng từng trường hợp một. Ví dụ như, một sự chăm sóc đặc biệt cần cho "một kết hợp mới từ một ly dị gần đó" hoặc "trường hợp của một người nào đó cứ vẫn lập đi lập lại sự bỏ bê trong những bổn phận gia đình (298). Hoặc, ngoài ra, khi có một loại biện hộ hay phô trương một tình trạng riêng biệt "như nó là một phần của lý tưởng Kitô giáo" (297). Trong những trường hợp khó khăn này, các mục tử phải kiên nhẫn tìm cách hội nhập.
Bình giải:
Số (7) đòi hỏi sự biện phân từng trường hợp một. Ngay cả trong những trường hợp tội nhân có ý kiến quá khác xa hoặc nghịch với Giáo Hội thì vị mục tử vẫn cứ phải kiên nhẫn tìm cách giúp họ.

8) Điều luôn luôn quan trọng là hướng dẫn họ đặt lương tâm mình trước Thiên Chúa, và để đạt đến điều này thì "sự duyệt xét lương tâm" được đề nghị bởi Amoris laetitia 300 thật là hữu ích, đặc biệt cho việc liên quan đến việc "đã đối xử với con cái như thế nào" hoặc với người phối ngẫu bị loại bỏ. Khi mà có những tình trạng bất công không giải quyết xong thì việc lãnh nhận Bí Tích gây cớ vấp phạm đặc biệt.
Bình giải:
Số (8) nhấn mạnh đến "sự duyệt xét lương tâm" của chính tín hữu đã có những sai phạm. Lý do có đủ nghiêm trọng khiến họ không thể từ bỏ đời sống chung hay tiết dục hay không để họ lãnh nhận các Bí Tích thì tùy vào phán xét của lương tâm họ. Nói một cách khác họ cần sử dụng lương tâm cách tốt hơn. Về điều này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô dạy:  "Lương tâm cá nhân cần được xem xét tốt hơn bởi đường lối thực hành của Giáo Hội trong một số hoàn cảnh không hiện thân được một cách khách quan cái hiểu của ta về hôn nhân" (AL, 303).
Ở mặt khác, họ cũng phải đặt lương tâm mình trước Thiên Chúa để duyệt xét đến những sự bất công mà họ đã gây ra cho người vợ hay chồng và con cái. Họ có bổn phận phải sửa chữa, giao hòa để tái lập đời sống chung. Hoặc nếu không thể tái hợp được vì sự kết hôn mới đã kéo dài hay vì lý do nào đó, thì do từ chính sự phán xét lương tâm, họ phải tìm cách đền bù những điều tai hại đã gây ra, để xóa đi những bất công. Nếu không, họ sẽ gây cớ vấp phạm đặc biệt cho cộng đoàn.

9) Có thể là đúng đắn cho một sự lãnh nhận nào đó (eventual) những Bí Tích bằng cách thức dành riêng (manera reservada), đặc biệt khi giả thiết có thể xảy ra những tình trạng bất đồng (conflictivas). Tuy nhiên lúc đó, phải đồng hành cùng với cộng đoàn để giúp đở họ tăng thêm hiểu biết và đón nhận, mà không gây ra sự lẫn lộn giáo huấn của Giáo Hội về sự bất khả phân ly của hôn nhân. Cộng đoàn là một khí cụ của  lòng thương xót, mà “không cần công trạng, vô điều kiện và nhưng không” (297).
Bình giải:
Số (9) này cho rằng có thể là đúng đắn khi cho lãnh nhận các Bí Tích một cách kín đáo, nơi ít người biết đến, nhất là khi việc rước lễ công khai trong cộng đoàn có thể gây ra những mâu thuẩn bất đồng. Số này như là một bổ túc cho việc được Rước lễ ở số (6) để tránh scandal có thể xảy ra. Tuy nhiên, không luôn luôn đòi phải rước lễ cách kín đáo như vậy. Mục tử, phải không ngừng đồng hành giúp giáo dân hiểu biết và đón nhận việc lãnh nhận các Bí Tích của các người ly dị tái hôn, để tránh đi sự hiểu lầm giáo lý bất khả phân ly của hôn nhân.  
Về việc lãnh nhận Thánh Thể của người ly dị tái hôn được nói ở số (6) và vẫn giữ nguyên tắc "tránh mọi dịp gâycớ vấp phạm" và được bổ túc bởi số (9) này, chúng ta thấy Thừa tác viên có thể cho lãnh nhận Thánh Thể:
- Nơi mà ít người biết tình trạng tái hôn của tín hữu đó, như Rước lễ ở một nhà thờ giáo xứ khác.
- Nơi nhà thờ giáo xứ của tín hữu đó cư ngụ nhưng người này lại ở xa, giáo dân trong giáo xứ ít người biết đến.
- Tương tự như trên, ở thành phố đông người, giáo dân trong giáo xứ ít biết nhau.
- Trong những dịp lễ lớn như Giáng Sinh, Phục Sinh… với điều kiện ăn năn thống hối và lãnh nhận Bí Tích Giải tội. Đồng thời cho giáo dân biết đây là một đặc ân của Đấng Bản Quyền địa phương để tránh hiểu lầm hay scandal.
- Nếu giáo dân trong giáo xứ đã trưởng thành trong đức tin, am hiểu những yếu tố giảm khinh của hành vi nhân linh và nhận biết được sự tha thứ vô bờ bến của Thiên Chúa, đến độ họ không còn cảm thấy sự bất xứng công khai, không bị vấp phạm hay hiểu lầm về giáo lý về việc người ly dị tái hôn Rước Lễ.


10) Việc biện phân không đóng lại, vì "nó năng động và luôn luôn phải mở ra đến cấp độ tăng trưởng mới và đến những quyết định cho phép thực hiện lý tưởng trong cách thế trọn vẹn nhất" (303) theo "luật tiệm tiến" (295) và tin tưởng vào sự giúp đở của ân sủng. Chúng ta trước hết là những mục tử. Vì vậy chúng ta hãy đón nhận những lời của Đức Thánh Cha: "Tôi cũng khuyến khích các mục tử lắng nghe họ một cách tận tình và sáng suốt, với ước nguyện chân thành là có thể đi sâu vào trung tâm màn kịch đời người để hiểu biết được quan điểm của họ, ngõ hầu giúp họ sống tốt hơn và nhận biết chỗ đứng của họ trong Giáo Hội" (312).
Bình giải:
Đoạn kết, vẫn kêu gọi mục tử tiếp tục biện phân theo lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là "lắng nghe họ một cách tận tình và sáng suốt, với ước nguyện chân thành", với mục đích giúp họ "sống tốt hơn và nhận biết chỗ đứng của họ trong Giáo Hội".
Nhìn chung lại, Tông Huấn Amoris Laetitia chương VIII không đưa ra giáo thuyết mới và những Hướng dẫn áp dụng của các Giám Mục Giáo miền Buenos Aires của Argentina cũng không phải là những điều mới lạ. Tuy nhiên, nó trở nên mới lạ là ở hướng đi và cách thế thực hiện mục vụ mới. Hướng đi mới tuy có cho thấy những khả thể lãnh nhận Bí Tích trong một số trường hợp nhưng điều chính yếu  là làm sao cho tín hữu ly dị tái hôn được hội nhập vào đời sống Giáo Hội và họ thật sự tin tưởng vào lòng thương xót Chúa để mạnh dạn và hy vọng tiến bước trong đời sống đức tin. Nhờ ơn Chúa và sự giúp đở của Giáo Hội họ có thể tăng triển đời sống ân sủng và nên thánh. Để thực hiện được hướng đi đó cần đổi mới cái nhìn về tội lỗi và thái độ mục vụ: tiếp nhận, đồng hành, biện phân và hội nhập. Sự biện phân là điều trước tiên cầ thiết để chính mục tử và tín hữu mà mục tử đồng hành hiểu được tình trạng của mình trước mặt Chúa, dựa vào những nguyên tắc luân lý đạo đức vẫn được truyền thống Giáo Hội tôn trọng: sự giảm khinh tội, nguyên tắc của lương tâm… sự yêu thương thứ vô bờ bến của Thiên Chúa.

=============================

Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô, gởi cho vị Đặc sứ giáo miền Buenos Aires, trong cùng ngày 5-9-2016:

 Vatican, ngày 5 -9-2016
Giám Mục Sergio Alfredo Fenoy, Đặc sứ của Giáo miền Buenos Aires
Hiền huynh thân mến, 
Tôi đã nhận được thư của Giáo miền Buenos Aires "Những tiêu chuẩn căn bản để áp dụng chương VIII của Amoris Laetitia". Cám ơn rất nhiều đã gởi cho tôi; và chúc mừng ngài về công việc ngài đã thực hiện: thật là một mẫu mực của sự đồng hành với các linh mục… và chúng ta đều biết sự gần gũi là cần thiết chừng nào giữa Giám Mục với giáo sĩ và giáo sĩ với Giám Mục. Người lân cận "gần nhất" (más prójimo) Giám Mục là các linh mục và giới răn yêu thương người lân cận như chính mình cũng khởi sự nơi chúng ta, những Giám Mục với những linh mục. Bản văn thật rất tốt đẹp (muy bueno) và đã diễn tả chính xác ý nghĩa (cabalmente el sentido) của chương VIII Amoris Laetitia. Không có những giải thích nào khác (No hay otras interpretaciones). Và tôi chắc chắn rằng nó mang lại hiệu quả tốt. Chúa sẽ nâng đở họ trong những cố gắng yêu thương mục vụ. Và chính xác là tình yêu thương mục vụ thúc đẩy chúng ta ra đi tìm người xa cách, và một khi tìm thấy, thực hiện sự tiếp nhận, đồng hành, biện phân và hội nhập trong cộng đoàn giáo hội. Chúng ta biết đây là một công việc khó khăn, là một thư mục vụ "thân thể tới thân thể " (cuerpo a cuerpo), không thỏa mãn với  những chương trình, tổ chức hay lề luật, nhưng cần thiết hơn với việc chửa trị. Một cách đơn giản là: đón nhân, đồng hành, biện phân và hội nhập. Về bốn thái độ mục vụ này, sự biện phân thì ít được chỉ dẫn và thực hành; nên sự đào tạo về biện phân được phải coi là cấp thiết cho cộng đoàn, cho các chủng sinh và linh mục. 
Sau cùng, tôi muốn nhắc rằng Amoris Laetitia  là một kết quả của lao động và cầu nguyện của cả Giáo Hội, với sự gẫm suy của hai Thượng Hội Đồng và Đức Giáo Hoàng. Vì vậy, tôi khuyến khích một sự giảng dạy đầy đủ về Tông huấn, mà chắc chắn sẽ giúp sự phát triển, sự vững bền và thánh thiện của gia đình. Một lẫn nữa tôi cám ơn vì công việc đã làm và tôi khuyến khích các ngài tiến tới trong những cộng đoàn giáo phận khác nhau, với những học hỏi và giảng dạy Amoris Laetitia. 
Xin vui lòng đừng quên cầu nguyện và cầu nguyện cho tôi. Nguyện Chúa Giêsu chúc lành cho họ và Đức Trinh Nữ chăm sóc họ. 
Thân mến,
Phanxicô
 
Lễ Giáng Sinh 2016
JB. Lê Ngọc Dũng
===============================
Phụ chú:
- Nguyên bản gốc bản "Những tiêu chuẩn…" và thư phúc đáp của ĐGH bằng tiếng Tây Ban Nha, dạng pdf tìm thấy tại: http://www.arcidiocesiurbino.org/public/files/Riflessioni%20Vescovi%20Buenos%20Aires.pdf
- Bản dịch tiếng Ý của Mauro Leonardi "Những tiêu chuẩn…" của các Giám Mục, đăng trên trang:http://www.settimananews.it/famiglia/decalogo-dei-vescovi-buenos-aires/
- Bản tiếng dịch tiếng Anh của Catholic Voices "Những tiêu chuẩn…" của các Giám Mục, có trên trang:https://cvcomment.org/2016/09/18/buenos-aires-bishops-guidelines-on-amoris-laetitia-full-text/
 

No comments:

Post a Comment