Saturday, March 18, 2023

Nguồn gốc tòa giải tội

 



Tòa giải tội xuất hiện vào thế kỷ XVI. Thánh Carôlô Bôrômêô, mà Giáo hội mừng lễ vào ngày 4/11, là nguồn gốc của việc sử dụng tòa giải tội.
Tòa giải tội là một phần trong lịch sử của Giáo hội Công giáo. Nó chỉ được tạo ra vào thế kỷ XVI. Quả thế, cho đến thời điểm này, việc xưng tội đã ddược thực hiện theo những cách thức khác nhau.
Vào thế kỷ thứ III, việc xưng tội chỉ được thực hiện một lần trong đời sống của mình và cách công khai. Từ thế kỷ IV, linh mục nghe xưng tội riêng tư và đưa ra việc đền tội tương xứng với tội lỗi đã được xưng thú. Các Kitô hữu bắt đầu xưng tội nhiều lần trong cuộc sống của mình. Mọi sự thay đổi vào năm 1215 ở công đồng Latêranô, dưới thời Đức Giáo hoàng Innôxentê III. Việc xưng tội diễn ra mỗi năm trước lễ Phục Sinh. Nó được thực hiện trên một băng ghế xưng tội (sedes confessionnalis), và hối nhân quỳ gối nhận xá giải. Một thế kỷ sau, vấn đề về sự kín đáo của việc xưng tội được đặt ra.
Mối quan tâm về sự ẩn danh và kín đáo của các cuộc trao đổi
Một số công đồng địa phương khuyến cáo giải tội cách kín đáo (in secretario), trong phòng thánh kín đáo. Đối với nữ giới, linh mục được khuyên nên ngăn cách bằng một vách ngăn thẳng đứng nhỏ, có phần giữa được khoét bằng chấn song và phía dưới có một bàn quỳ. Khoảng từ năm 1545 đến 1563, Công đồng Trentô dành một khóa họp khoáng đại cho bí tích Sám Hối. Chính vào thời điểm này được xác định nghĩa vụ xưng thú tất cả các tội trọng trước khi rước lễ. Do đó, chính trong suốt thời kỳ Phản Cải cách mà tòa giải tội đã được cổ võ lần đầu tiên. Và nguồn gốc của vật dụng phụng vụ này được cho là của thánh Carôlô Bôrômêô, một trong những vị Hồng y Giám mục người Ý đã dành nhiều tác phẩm của mình cho bí tích Giải Tội. Trong số các tác phẩm của ngài, thành công nhất và phong phú cho hậu thế nhất là Chỉ dẫn cho các cha giải tội trong thành phố và giáo phận của mình.
 

Ngài đã khuyến khích sử dụng một tòa giải tội và bắt buộc dùng nó trong thành phố Ý và trong tỉnh của ngài. Danh tiếng của ngài với tư cách Giám mục cải cách đã lan sang Pháp vào lúc kết thúc Công đồng, rồi cái chết của ngài vào năm 1584, và nhất là sau khi ngài được phong thánh vào năm 1610. Do đó, cách nhanh chóng, tòa giải tội đã được chấp nhận bởi các nước khác, trong đó có Pháp, sau các công đồng Aix-en-Provence (1585) và Toulouse (1590). Tòa giải tội này đảm bảo sự ẩn danh giữa linh mục giải tội và hối nhân, và cho phép sự kín đáo của việc trao đổi. Khoảng thế kỷ XVII và XVIII, nó được trang trí cẩn thận và trở thành nơi xưng tội hầu như duy nhất trong đạo Công giáo.
Các tòa giải tội kín ngày càng ít được sử dụng
Từ công đồng Vatican II, các tòa giải tội dưới hình thức phòng nhỏ kín càng ngày càng được ít sử dụng hơn cho dù chúng vẫn còn được dùng. Việc xưng tội diện đối diện được khuyến khích nhiều hơn. Tuy nhiên, một sách ngăn cách giữa hối nhân và cha giải tội vẫn có thể được duy trì để bảo vệ sự ẩn danh. Một sự ngăn cách đơn giản, nhẹ nhàng hơn, do đó thay thế các tòa giải tội lớn xưa. Quả thật, điều quan trọng là người tín hữu có thể chọn hình thức xưng tội để có thể lãnh nhận bí tích Hòa Giải trong những điều kiện tốt.
Tý Linh
Nguồn hdgmvietnam

Friday, March 17, 2023

Ngắm mười lăm sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu

1.

  Năm nào cũng vậy, mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và diễn ra liền mạch 5 tuần lễ tiếp theo. Dọc dài quãng thời gian này, trong ngoài nhà thờ, từ tượng ảnh, khăn phủ nhà chầu Thánh Thể, đến cả lễ phục của chủ tế,  thảy đều màu tím than. Váng vất điều gì, như một thoáng thanh tĩnh,  u trầm, chay tịnh ở khắp nơi,  từ cảnh vật bên ngoài, đến lòng người, u ẩn,  riêng tư. Có muốn, cũng chẳng được nghe ngân vang đàn hát Kinh Vinh Danh (Gloria) và tung hô Tin Mừng (Alleluia) mỗi sớm mai đầu lễ. Bù lại, cứ chiều tối các ngày chẵn trong tuần, nhà thờ nào cũng đầy chặt những người là người, tề tựu đông đủ cùng nhau đọc kinh, lần hạt Mân Côi. Xen kẽ sau mỗi chục (hoặc 3 kinh Kính Mừng) thì Suy Ngắm về Sự Thương Khó của Ðức Chúa Giêsu (5, 10 hoặc trọn bộ 15 ngắm). Cử hành việc thiêng liêng này, miệng đọc - lòng suy mà tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trên suốt những chặng đường Cứu Ðộ lên Núi Sọ. Thực ra, không hề thấy Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó - hiểu như là một điều bắt buộc phải có của Phụng vụ - trong Lịch Công giáo quanh năm. Có chăng, chỉ là một nghi thức bên lề Phụng vụ, được cảm hứng từ một bản văn tường thuật về Cuộc Khổ Nạn của Ðức Chúa Giêsu, mà thuật ngữ của Phụng vụ quen gọi là Bài Thương Khó. Và đặc biệt,  được diễn cảm, phân cảnh theo từng chương hồi, bằng cung cách tế tự và bằng thứ ngôn ngữ, cung bậc ca vãn rất riêng của những cộng đoàn Việt Nam Công giáo ở ngay buổi hừng đông mới đón nhận Tin Mừng, nửa đầu thế kỷ 17.

Càng đọc kỹ những trang bút ký - Histoire du Royaume de Tunkin,  1651; Divers Voyages et Missions,  1653 của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và của các nhà truyền giáo dòng Ðaminh,  dòng Phanxicô - càng hiểu rõ hơn hoàn cảnh phát sinh, thời điểm ra đời và cả những chỉ dẫn rất cẩn trọng cho việc cử hành nghi thức suy ngắm này : “Năm 1644,  ở Hội An,  giáo hữu hát những lời than thở bằng tiếng bản quốc rất thảm thiết về  sự thương khó của Ðức Chúa Giêsu... Chúng tôi đã chia các mầu nhiệm thương khó ra làm 15 đề tài. Cứ sau khi đọc chung 10 kinh chuỗi hạt thì ngắm một đoạn và suy niệm…”. Thói quen lành thánh ấy - như một truyền thống - đã được các thế hệ về sau, dù ở xứ Ðàng Trong hay Ðàng Ngoài - kế thừa, chấp hành rất nghiêm túc. Cụ thể là sách Thánh Giáo Kinh Nguyện của các giáo phận thuộc miền Thừa Sai Paris (Hà Nội,  Phát Diệm, Hưng Hóa, Thanh Hóa…); sách Toàn Niên Kinh Nguyện của các giáo phận miền Dòng Ðaminh (Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình,  Lạng Sơn…) và sách Mục Lục Nhựt Khóa của miền đạo thuộc Trung - Nam bộ (Vinh,  Huế,  Qui Nhơn,  Nam Kỳ Ðịa Phận…) là những dẫn chứng còn đậm nét nhất. Ðây, xin mời đọc lại “lời bảo” in trong Thánh Tuần Sự Vụ - Ca Hát Mùa Chay của sách Mục Lục: “Ðến giờ Ngọ thì dọn mình mà chầu Chúa. Trên bàn thờ,  thắp hai cây đèn. Dưới và trước bàn thờ đặt một chơn đèn lớn mà cắm mười lăm cây đèn. Ðoạn thì than mười lăm sự thương khó, cứ than và lần hột một chục thì tắt một cây đèn bên hữu; đoạn than một thứ khác và lần hết một chục thì tắt một cây đèn bên tả, và làm như vậy cho đến hết mười bốn cây đèn; còn một cây trên đảnh thì chớ tắt, mà để đọc kinh Chúng Tôi Là Vật Mọn. Ðoạn thì cất cây đèn ấy xuống, để phía sau bàn thờ cho khuất, rồi than Kinh Thẩm Phán…”. 

Kết quả hình ảnh cho sự thương khó

2.

  Ở bên Tây, bên Mỹ thế nào không rõ,  chứ ở Việt Nam ta - đặc biệt tại các nhà thờ xứ đạo làng quê - mùa Chay và Tuần Thánh đã diễn ra rất trọng vọng và phong phú. Cả về kinh sách, lễ nhạc (hình thức); cả về cảm thức thánh thiêng (nội dung). Nếu tôi nhớ không nhầm thì mùa Chay thuở ấy, xa thật xa trước Công đồng Vatican II - được chuẩn bị kỹ lắm, chi li từng tí một. Nói như người bây giờ là chuẩn bị từ xa, xa những 3 Chúa nhật trước Thứ Tư Lễ Tro, được đặt tên riêng bằng tiếng Latinh và rao trong Lịch Công giáo đàng hoàng: Septuagesima (thứ 70); Sexagesima (thứ 60) và Quinquagesima (thứ 50). Như thế, rõ ràng là đã có một Lễ Hội Mùa Chay Cả, một Tuần Ðại Phúc rất bài bản và không thiếu sắc màu, cảm xúc. Thậm chí, dân gian nhà đạo mình còn đặt cho nó một cái tên là Mùa Thương Khó. Ngạc nhiên chưa, thương khó cả một mùa, thương khó mà lại dễ thương làm sao! Nhớ và thương suốt cả một đời chứ chẳng dễ phôi pha, bèo bọt đâu.

Chu kỳ lễ hội mùa Chay này dễ nhớ và dễ thương còn vì nó vừa vận hành với thời vụ, hoa màu; với con nước, tuần trăng của đồng áng; lại vừa ăn khớp nhịp nhàng với bước đi chộn rộn của những hội hè đình đám ra Giêng ở ngoài đời. Ðạo và đời cứ như hòa quyện vào nhau, ràng ríu, quấn quýt như bóng với hình, rất nhuần nhị,  chan hòa. Ðến nỗi, có nhiều nơi, người bên lương và nhà chùa cũng tham gia, công đức, cúng dường với người bên đạo, như một lễ hội chung của thôn làng vậy.

Ðời thì :

Tháng Giêng, ăn Tết ở nhà. . .

Tháng Hai, trồng đậu, tháng Ba trồng cà

Còn đạo :

Tháng Hai - Ngắm đứng, tháng Ba - ra mùa…

Còn nhớ như in kinh Bổn lớp Ðồng Ấu thuở ấy dạy bọn trẻ chúng tôi thế này : “Xem lễ ngày Chúa nhật, cùng các ngày lễ buộc…  Xưng tội trong một năm ít là một lần / Chịu Mình Thánh Ðức Chúa Giêsu trong mùa Phục Sinh”. Bởi mỗi năm chỉ có một lần, thế nên, người ta nghỉ ngơi tất tần tật mọi việc nặng nhẹ, xa gần. Tạm gác một bên những mùa màng, bán buôn, chợ búa, vườn tược… chỉ để dọn mình xưng tội,  rước lễ, đặng “ăn mày các ơn ích thiêng liêng mùa Chay cả”. Cũng là để hồn xác được thong dong,  thư nhàn, hòa mình vào sinh hoạt nhà thờ - nhà thánh, đoàn thể - xứ họ… sau một năm lam lũ,  vất vả vì manh áo miếng cơm. Bởi thế, chẳng cần ai bảo ai. Mỗi người, mỗi giới, mỗi việc... Cứ răm rắp như là việc chung đã thành nền nếp của đất lề, quê thói, đời trước đến đời sau. Trong số những bộn bề bất thành văn ấy, đáng nói và tập trung chú ý hơn cả vẫn là Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Ðức Chúa Giêsu. Truyền thống này hình như đã quá in sâu vào tâm thức, đủ sức lan tỏa, lôi cuốn mọi người vào cuộc. Chỉ tính rặt một sự kiện “Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu” thôi đã nhiêu khê, chồng chéo lắm rồi. Nào ngắm đứng, ngắm quỳ, ngắm rằng, ngắm nhân sao (ngắm đơn); nào ngắm dấu đanh, ngắm nhân tài, ngắm lễ đèn (ngắm kép / ngắm trọng thể); nào đi đàng thánh giá  v.v… Mỗi thứ mỗi vẻ, mỗi công đoạn, mỗi cách thể hiện lòng đạo, đức tin. Mỗi nơi, mỗi thời mỗi thêm bớt, đậm nhạt. Hỏi chứ, làm sao mà tránh cho khỏi những suy diễn, ngoại thư, hư cấu, thêm bớt, hoa hòe hoa sói, điều tiếng, khen chê, đúng sai ? Cũng vậy, làm sao không vướng víu vào cảm tính bi lụy thường tình, những khoảnh khắc lan huệ sầu ai của những người con Chúa mau nước mắt ? Những ai đã từng sống một thuở một thời với nhà thờ - xứ đạo - làng quê, hẳn còn nhớ cái cảnh tóc rối đầu tang, một trời khăn trắng ngày Thứ Sáu Tuần Thánh? Người ta bảo là để tang Chúa đấy! Thế mới hay, cái khuynh hướng chung về tâm lý, hình như bao giờ cũng nghiêng chiều về đường cay đắng, khổ ải, đau thương? Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu - hơn hai nghìn năm rồi - mà vẫn cứ là đề tài còn tươi nguyên tính thời sự - khơi gợi biết bao nhiêu nguồn cảm hứng cho các thể loại văn học, nghệ thuật? Dầu sao, để phán xét một cách khách quan và công bằng, phải đặt Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó vào đúng thời điểm lịch sử của nó. Ðó là cái thời lịch sử đất nước ta đang chìm trong cảnh cát cứ, cương vực Trịnh Nguyễn phân tranh ở đôi bờ sông Gianh; giữa ảnh hưởng nhập nhòa, cũ mới, gần xa của Hán - Nôm thịnh mãn và Quốc ngữ còn phôi thai. Và cũng là lúc lòng người chưa thoát ra khỏi cái không khí ảm đạm, u hoài của tử biệt sinh ly, qua giọng bi ai, nhấn nhá, trầm bổng bàng bạc trong học quốc âm, như các thể loại Vè, Vãn, Ca, Ngâm. Dường như, có thể nói, kinh văn nguyện cầu trong nhà thờ và thơ văn ngoài đời đang có chung những tần số rung cảm có hơi hướm của lâm khốc biệt hành hơn là lưu thủy, hành vân. Từ Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1587) đến Ngọa Long Cương Vãn và Tư Dung Vãn của Ðào Duy Từ (1572-1634). Từ thư mục kinh sách của giáo sĩ Girolamo Majorica (1591-1656), cho đến Cảm Tạ Niệm Từ của Thầy giảng Phan Chi Cô (1640) và Sấm Truyền Ca về sau này của Thầy cả Lữ-Y Ðoan (1670)... Không lạ gì, bên cạnh đó, còn bao nhiêu là thứ nghi thức, phụ họa gần xa để làm giàu cho kịch bản “Mùa Thương khó”, như hái lá dừa, rước lá dừa (thay cho cành lá ô liu, một sáng kiến của giáo sĩ Alexandre De Rhodes), rửa chân, rang nẻ gạo tám thơm, hái hoa xoan, nấu xôi làm con chiên, diễn tuồng thương khó, dâng hạt, kiệu bắt, đọc đoạn, đóng đanh, tháo đanh, táng xác, hôn chân, than mồ… Ðấy là chưa nói tới trường hợp Ngắm Thương Khó một cách trọng thể, gọi là Ngắm Dấu Ðanh, Ngắm Lễ Ðèn và Ngắm Nhân Tài vào chiều tối Thứ Sáu Tuần Thánh. Có đầy đủ lễ bộ, chương khúc; có phụ đệm của sênh phách, để cầm trịch thưởng phạt; có nhị, hồ, mõ, trống, chiêng, não bạt, nghi trượng, lễ tân…, nghe cũng không kém phần dìu dặt theo kiểu nhã nhạc cung đình. Ghi nhận lại như trên, chẳng phải vẽ vời hoa lá cành của kẻ viết bài này đâu. Mà bức tranh đầy cảm xúc thánh thiêng này còn thấy hiện ra ngay trong chữ nghĩa, chấm, phảy của các thư mục thuộc dạng “bản tường trình của Dòng Tên, 1645-1653”: Thật phải ngợi khen Thiên Chúa, khi thấy giáo dân kiên trì thức khuya để dự lễ… Họ ngâm những bài ca rất sầu thảm bằng ngôn ngữ của họ, như muốn đổ dòng nước mắt để rửa cho họ và dâng cho các Thiên Thần ngự ẩm…

3.

  Ðến nay đã trên dưới 400 năm rồi (1651-2019), Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó trước sau vẫn tồn tại nơi các cộng đoàn xứ đạo, dòng tu. Cứ coi như đây là một trong những nỗ lực mang tính sáng tạo bước đầu để giúp tín hữu người Việt mình thời ấy có điều kiện tiếp cận và thông dự phần nào vào đời sống thiêng liêng của mùa Chay. Nên nhớ cho rằng buổi ấy, kinh sách của nhà đạo mình đang ở trong tình trạng phôi thai về mặt chữ nghĩa, pha trộn Latinh, Hán, Nôm và Quốc ngữ. Mãi đến những thập niên 1960 của thế kỷ trước, dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II và với kỹ thuật in ấn hiện đại, tình trạng cũ ấy mới chuyển đổi như ta thấy ngày nay. Thật lòng mà nói, phải tạ ơn Chúa thương. Suốt mấy trăm năm (1651-1965), Hội Thánh Công giáo ta yêu, cứ từng bước một, lớn dần lên, vươn vai dài rộng. Dù Hán, dù Nôm, dù Latinh, dù Quốc ngữ, ấy vậy mà cứ vang rền nền nảy, thông giọt, bén đồng, thật hiếm thấy trên cõi đời này. Tôi muốn nói tới kinh sách lễ nhạc của một thời đã qua, có cả những cảm xúc ở tận đáy thẳm vô thức, vô ngôn, không lý giải minh triết được. Rất đề huề, có nơi, có chốn hẳn hoi:

Các thầy đọc tiếng Latinh

Các cô con gái thưa kinh dịu dàng

Xét cho cùng, cả về hình thức lẫn nội dung, tuy Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó chỉ dừng lại ở cái ngưỡng cửa của phạm trù “lòng đạo đức dân gian”, nhưng thật sự đã xuất phát từ lòng khát khao của tổ tiên - ông cha ta muốn được hòa nhập vào dòng chảy chung của Giáo hội Công giáo ngay từ buổi đầu. Vừa là lịch sử, vừa là văn hóa, ngôn ngữ, lại vừa mang dấu ấn của đức tin, không thể xem thường. Mà đã là đức tin, là văn hóa thì chẳng phải là chuyện muôn thuở muôn đời sao? Ai nỡ để cho gió cuốn đi? Ngay đến vật chất phù vân, nhẹ bấc như gấm vóc, lụa là mà cũng mãi đậm đà nhan sắc nữa mà: “Lụa không nhàu, màu không nhạt !”. Huống hồ là văn hóa, là đức tin...

Ðể khép lại câu chuyện kinh hạt nhà đạo này, chi bằng học đòi cụ Nguyễn Du mà “đốt lò hương cũ, so tơ phím này”. Và chi bằng, lặng lẽ đi tìm thời gian đã mất thôi.

Mấy trăm năm qua, bản kinh văn ấy, cách cử hành ấy, ngôn ngữ và cung bậc ấy, tuy đôi khi có nhạt nhòa, biến tấu hoặc bị lãng quên ít nhiều, thì xem ra vẫn còn đâu đấy, như một ký ức Ðức Tin - Văn hóa trong lòng người con Chúa Việt Nam. Bởi vì mỗi năm, lòng ai kia như vẫn bồi hồi bước vào mùa Chay Thánh, khi cầm đọc và ngâm nga bản kinh văn ấy trên mặt giấy bản đã ố vàng cũ nát, mỏng tang. Trong khi ấy, ngoài kia là sân vườn, là ngõ trúc, bờ tre và dọc đường thôn đến nhà thờ, cứ ngây ngây mùi cốm mới ra Giêng và hoa xoan nồng nàn: loài hoa tim tím, chỉ nở đúng một lần, vào Mùa Thương Khó. Ðã kinh qua bao thế hệ và bao nhiêu cơn bão lũ nhiễu nhương của thời cuộc, phải chăng, cha ông ta đã biết đạo, vào đạo, giữ đạo, sống đạo, yêu đạo và truyền đạo một cách rất thuần thành, kiên định bằng chính hơi thở thiêng liêng, bằng chính máu thịt, hồn cốt thoát ra từ kho tàng văn hóa phi vật thể, là Kinh Sách, Lễ Nhạc? Nếu cơm gạo nuôi sống phần xác thì kinh hạt cũng đã thấm đẫm vào miền đất tâm hồn, để hạt giống Lời Chúa lớn lên, sinh hoa kết trái vậy? Nói như sử gia Tư Mã Thiên thì kinh sách là gì, nếu chẳng phải là tao phách của tiền nhân, tiên tổ dạy dỗ và gởi gắm cho con cháu đời sau biết thế nào là sống thuận ý trời và vừa lòng người.

Trở lại với bài báo nho nhỏ này , bản thân kẻ viết trộm nghĩ mình như đang bơi ngược dòng sông, họa may tìm được chút gì vang bóng của một chặng thời gian đã xa lắc xa lơ. Chẳng hiểu rồi đây, trong vòng xoáy của tốc độ công nghiệp và đô thị hóa, hỏi chứ, gìn vàng giữ ngọc cho ai và những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?

Của cải mẹ cha cho, có vậy

Ðể dành, khi con lớn, con khôn

Những câu kinh sách, phiên chầu lễ

Ðã thấm vào da thịt, máu xương

Ðã nên nhân đức, nên lòng đạo

Nuôi sống cả đời con, xác hồn.

Lê Đình Bảng

Nguồn Trang mạng CGVDT

 

Wednesday, March 15, 2023

Trang hoàng cho BÀN THỜ

Khăn Bàn thờ

Ít là bàn thờ được phủ bằng khăn bàn thờ khi cử hành thánh lễ, khăn bàn thờ luôn luôn là màu trắng (QCSL 304).  QCSL 304 hướng dẫn như sau: “Vì lòng tôn kính đối với việc cử hành tưởng niệm Chúa và đối với bữa tiệc dọn Mình và Máu Chúa, nên phủ bàn thờ nơi cử hành một khăn màu trắng, có hình dáng, kích thước và trang trí thích hợp với cấu trúc của bàn thờ”. Có thể trang trí thêm vào khăn phủ bàn thờ tùy theo tập tục và văn hóa địa phương. Một tấm lót bằng nhựa plastic cần thiết có thể đặt ở trên bàn thờ được cung hiến nơi nhiều dầu thánh được sử dụng. Khăn bàn thờ có thể lấy đi sau thánh lễ, nhưng việc lột khăn bàn thờ là một dấu hiệu riêng biệt, cho nên tốt nhất được dành vào thứ Sáu Tuần Thánh. Để giữ cho khăn bàn thờ được luôn luôn sạch sẽ, nên phủ lên nó bằng một tấm phủ chống bụi đơn giản. 

Nến

Nến cần thiết trong thánh lễ là 2, 4 hay 6 cây (QCSL 117; 307). Thay đổi số cây nến là một cách thức phân biệt ngày lễ và mức độ cử hành. Tập tục tốt lành đã phát triển ở một vài nơi là sử dụng 2 nến cho lễ thường và lễ nhớ, 4 cho lễ kính và 6 nến cho lễ Chúa nhật cùng lễ trọng. Vào những dịp long trọng, sẽ sử dụng 7 nến khi Đức Giám mục giáo phận chủ tế (QCSL 117).

Khuynh hướng giảm kích cỡ của nến và chân nến sẽ giúp người ta cảm nhận tốt hơn và dễ tiếp nhận hơn….

Với những chân nến tiêu chuẩn, chúng đặc biệt cải thiện vẻ bề ngoài và tỷ lệ của bàn thờ nhỏ. Chúng có thể đứng gần bàn thờ và đỉnh của chân nến ít là ngang bằng với mức bề mặt của bàn thờ... Dù chọn lựa sắp xếp nến phụng vụ thế nào thì những dấu chỉ xinh đẹp của ánh sáng thánh thiêng cùng với sự hiện diện mang tính thiên thần này phải được tỏ cho mọi người thấy mối liên quan của chúng với bàn thờ, nhằm lôi kéo mọi cặp mắt hướng về điểm tập trung của cộng đoàn phụng tự.

Hoa

Theo QCSL số 305: “Nên giữ chừng mực khi trang hoàng bàn thờ. Trong mùa Vọng, bàn thờ được chưng hoa cách vừa phải, thích hợp với đặc tính của mùa, để không cho thấy quá sớm niềm vui trọn vẹn của ngày Sinh Nhật Chúa. Mùa Chay không được chưng hoa trên bàn thờ, trừ Chúa nhật Laetare (IV Mùa Chay), các lễ trọng và lễ kính.” Như vậy, việc chưng hoa phải luôn luôn điều độ, nên đặt hoa chung quanh bàn thờ hơn là trên bàn thờ.

Sử dụng hoa trong phụng vụ được điều chỉnh theo tập tục địa phương và mùa phụng vụ. Không dùng hoa trang trí ở trên hay gần bàn thờ trong mùa Chay.[1] Sự hiện diện của hoa hay không có hoa là một dấu chỉ hiệu năng theo nguyên tắc tương phản. Tốt hơn đừng bao giờ sử dụng hoa giả.

Nến và hoa có thể đặt gần hay trên bàn thờ. Tuy nhiên, theo như thực hành từ xa xưa và kinh nghiệm hiện nay, đặt chúng gần bàn thờ thì tốt hơn đặt ở trên bàn thờ.

Vấn đề micro

Micro trên bàn thờ nên được sử dụng theo kỹ thuật tân tiến nhất, để chúng luôn luôn thể hiện chức năng một cách hoàn hảo và không phải là đối tượng dân chúng dễ dàng có thể nhìn thấy. Micro và chân micro quá to sẽ che chắn các đồ thánh và gây cảm giác bừa bộn trên bàn thờ. Thực hành này đồng thời cũng phá vỡ một luật cổ xưa rằng đối tượng nào không liên quan đến Hy tế Thánh Thể thì đừng bao giờ đặt chúng trên bàn thờ.

Những dịp lễ lớn nên sử dụng thêm hoa, nến, đèn, biểu ngữ..., miễn là chúng làm cho ngày lễ đặc biệt thêm phong phú mà không làm giảm sự tập trung vào bàn thờ và cản trở các nghi lễ. Nên thêm đèn điện nhiều hơn vào dịp lễ Hiển linh (LNGM 240). Các biểu ngữ loan truyền các sứ điệp nên là những tác phẩm nghệ thuật chứ không phải là loại hàng rẻ tiền được trang trí.2

Lm Giuse Phạm Đình Ái,
Dòng Thánh Thể SSS

_____________________________________________________

Chữ viết tắt:

LNGM = Sách Lễ nghi Giám mục (1984).

QCSL  = Quy chế Tổng quát Sách Lễ Roma (2002).

1 QCSL 305; NLGM 48;252;397;824. Loại hoa ra khỏi nhà thờ chứ không chỉ trên bàn thờ trong mùa Chay, trừ ra trong Chúa nhật “Mừng Vui Lên”, lễ trọng và lễ kính.

2 Peter Elliott, Ceremonies of the Modern Roma Rite, 72 - Không đặt bất cứ bích chương (poster) nào ở cung thánh.

PHỤNG VỤ - Cung thánh là gì?

Cung thánh là gì?

Từ ngữ

Từ ngữ “cung thánh” trong tiếng Việt được dịch từ tiếng La-tinh sanctuarium. Từ này, theo nghĩa đen, có nghĩa là đền thánh hay nơi thánh, phát xuất từ chữ sanctus, nghĩa là thánh hay thuộc thần thánh.  Cung thánh là nơi thánh vì quy chiếu đến khu vực phụng tự trong nhà thờ, đặc biệt là chung quanh bàn thờ.

Thánh Kinh

Trong Cựu Ước, lều Hội ngộ hay Đền thờ Giêrusalem, cũng như mọi đền đài thánh trong các tôn giáo khác đều có một nơi cực thánh (1V 6,16; Ed 41,4). Trong thánh đường, cung thánh là nơi linh thánh nhất, tương tự như nơi cực thánh của Đền thờ Salômôn. Cung thánh biểu tượng cho nơi cao vời thánh thiện, là thiên đàng nơi Đức Kitô đã vào (Dt 9,11-12.24), là Nhà Cha (x. Ga 14,2), là cung lòng Chúa Cha (Ga 1,18), là nơi Chúa Con đang ngự trị và đợi chờ các tín hữu.[1]

Cung thánh xưa và nay

Trong các nhà thờ cổ, cung thánh thường được trang hoàng sắc sảo lộng lẫy và thường nằm phía dưới mái vòm của nhà thờ. Thật sự, cung thánh như là một chiếc hộp xinh đẹp chứa đựng viên kim cương quý giá là bàn thờ. Thậm chí, các nhà thờ bên Đông phương còn coi toàn bộ cung thánh là bàn thờ. Do đó, chất liệu để hình thành nên cung thánh (như làm sàn hay trần cung thánh) nên là đối tượng quý giá đặc biệt, đồng thời thiết kế cung thánh phải làm nổi bật lên tính trung tâm và hội tụ của bàn thờ. Nếu như sàn cung thánh cùng được làm bằng chất liệu, ví dụ như cẩm thạch, y hệt chất liệu làm bàn thờ, thì sẽ giúp nối dài hay tỏa rộng sự hiện diện của bàn thờ và như thể đặt bàn thờ vào một thế giới thánh thiêng. Cung thánh cũng phải rộng đủ cho không những chủ tế và giúp lễ mà còn có thể chứa cả số đông các vị đồng tế và những tác viên phụng vụ khác nữa.

Đây là một đề nghị khi xây nhà thờ: i] Thứ nhất, phía đầu cung thánh nên có hình bán nguyệt cùng với những hình ảnh về Chúa Kitô, về Chúa Ba Ngôi được bao quanh bởi các vị thánh và các thiên thần trong đạo binh thiên quốc; ii] Thứ hai, trần cung thánh nên có dạng mái vòm. Tất cả sẽ làm cho người tham dự đặc biệt tập trung vào bàn thờ. Hơn nữa, nó còn là một hình ảnh vừa đẹp đẽ vừa ý nghĩa vì giúp các tín hữu tham dự hướng về bàn tiệc thiên quốc, hướng lòng trí họ lên quê trời và giúp họ dễ dàng cầu nguyện.[2]  

Để phân biệt và làm nổi bật cung thánh với những khu vực khác trong nhà thờ, trong khi Giáo hội Chính thống tiếp tục sử dụng các hình ảnh icon trong cung thánh thì Giáo hội Tây phương đã từng có tục lệ dựng lên một hàng rào thấp quanh cung thánh (altar rail - communion rail - chancel rail), vừa có công dụng tách biệt cung thánh [vốn chỉ dành cho hàng giáo sĩ] với lòng nhà thờ hay khu vực của dân chúng, vừa dùng vào việc cho rước lễ mà nay không còn nữa vì từ sau Công đồng Vatican II, nhiều giáo xứ đã gỡ bỏ hàng rào này.

Tại một số nhà thờ, cung thánh nằm trên một trục trực tiếp từ lối vào nhà thờ qua lòng nhà thờ và tiến đến cung thánh khiến mọi người dễ dàng nhận ra. Nhưng một số thánh đường, cung thánh có thể được định vị ở giữa cộng đoàn: chẳng hạn, bàn thờ và giảng đài có thể được đặt đối diện nhau ở hai đầu mút của lòng nhà thờ cùng với cộng đoàn ngồi trong 2 hay nhiều hơn hai khu vực ở mỗi bên.[3]

Mọi nhà thờ khi được thiết lập cho các cử hành phụng vụ cần phải có phần cung thánh. Cung thánh bao gồm bàn thờ tế lễ, giảng đài để công bố Lời Chúa, ghế chủ tọa cho chủ tế và có thể thêm nhà tạm [ở vị trí trục trung tâm phía sau bàn thờ] (DX 62). Cung thánh cũng là nơi cho các thừa tác viên khác thi hành công việc phụng vụ của mình, tức là “thầy phó tế và các người giúp khác phải có chỗ trên cung thánh. Các linh mục đồng tế có thể ngồi tại khu vực cung thánh hay khi số vị đồng tế quá đông, thì sắp xếp ghế ngồi cho các ngài đâu đó trong thánh đường, nhưng phải gần bàn thờ” (QCSL 294).  QCSL 310 thêm rằng: “Cũng đặt ghế trong cung thánh cho các vị đồng tế và các linh mục hiện diện trong buổi cử hành mà không đồng tế, các vị này phải mặc áo “các phép””.

Hầu hết các hành vi nghi lễ của phụng vụ đều diễn ra tại cung thánh, đặc biệt tại khu vực bàn thờ. Vì thế, để phân biệt với lòng thánh đường và để cho các tín hữu tham dự có thể dễ dàng thấy được các hành động phụng vụ này, người ta thường đôn cao cung thánh lên một số bậc, đồng thời xây dựng cung thánh theo một kiến trúc và trang trí đặc biệt, cũng như làm cho cung thánh gần với cộng đoàn hơn (DX 61). Tuy nhiên, như QCSL 295 nói rõ mà một số bản dịch đã bỏ sót, chỉ nâng cao cung thánh hơn lòng nhà thờ một chút mà thôi, chứ không cao quá như nhiều nơi vẫn làm.

Cung thánh cũng trở nên một nơi đặc biệt, theo ngôn ngữ và giáo lý của chúng ta ngày nay, còn nhờ vào các đối tượng khác như: bàn phụ, các ghế ngồi và các thừa tác vụ nữa. Chẳng hạn, phần đầu lễ và cuối lễ, chủ tế nên đứng tại ghế chủ tọa; phần Phụng vụ Lời Chúa được cử hành tại giảng đài và phần Phụng vụ Thánh Thể tại bàn thờ.

Cung thánh cũng phải đủ rộng để đáp ứng các nhu cầu: i] Cử hành thánh lễ có thể diễn tiến tốt đẹp và được mọi người nhìn thấy tỏ tường (QCSL 295; LNGM 50); ii] Thuận tiện cho việc cử hành bí tích Truyền Chức, chẳng hạn: có chỗ cho các tiến chức phủ phục, cho những hành động phụng vụ chính yếu như nghi thức đặt tay, xức dầu thánh và trao chén thánh (DX 109); iii] Sắp xếp ghế ngồi và bàn quỳ cho cô dâu chú rể  khi cử hành bí tích Hôn Nhân mà không ảnh hưởng đến những vật dụng quan trọng trên cung thánh (DX 115).

Việc trang hoàng cung thánh

QCSL (2002) hướng dẫn như sau:

-  Vì lòng tôn kính đối với việc cử hành tưởng niệm Chúa và đối với bữa tiệc dọn Mình và Máu Chúa, nên phủ bàn thờ nơi cử hành một khăn màu trắng, có hình dáng, kích thước và trang trí thích hợp với cấu trúc của bàn thờ (số 304).

- Nên giữ chừng mực khi trang hoàng bàn thờ. Trong mùa Vọng, bàn thờ được chưng hoa cách vừa phải, thích hợp với đặc tính của mùa, để không cho thấy quá sớm niềm vui trọn vẹn của ngày Sinh nhật Chúa. Mùa Chay không được chưng hoa trên bàn thờ, trừ Chúa nhật Laetare (IV mùa Chay), các lễ trọng và lễ kính. Việc chưng hoa phải luôn luôn điều độ, và nên đặt hoa chung quanh bàn thờ hơn là trên bàn thờ (số 305).

- Trên bàn thờ chỉ đặt những gì mà việc cử hành thánh lễ đòi hỏi, nghĩa là, Sách Tin Mừng từ đầu cử hành cho đến khi công bố Tin Mừng, chén thánh với đĩa, bình thánh, nếu cần, khăn thánh, khăn lau và Sách Lễ từ lúc trình lễ phẩm cho đến khi tráng chén. Phải đặt cách kín đáo những gì cần khuếch âm tiếng của vị tư tế (số 306).

- Mỗi khi cử hành phụng vụ, cần có những cây nến để tỏ lòng cung kính và mừng lễ (x. n. 117) được đặt trên bàn thờ hay chung quanh bàn thờ, tùy theo cấu trúc của bàn thờ và cung thánh, miễn sao cho có sự hòa hợp chung và đừng cản trở giáo dân nhìn thấy dễ dàng những gì đang thực hiện hay đặt trên bàn thờ (số 307).

- Trên bàn thờ hay gần cạnh, phải có thánh giá có hình Chúa chịu nạn, mà giáo dân tập họp có thể thấy rõ. Thánh giá như thế sẽ gợi cho trí các giáo dân nhớ sự thương khó cứu độ của Chúa, và được để thường xuyên gần bàn thờ ngay cả ngoài lúc cử hành phụng vụ (số 308).

- Trong phụng vụ trần gian, Hội Thánh tham dự, nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thánh đô Giêrusalem, nơi Hội Thánh là lữ khách đang tiến về, ở đó Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa; và khi kính nhớ các thánh, Hội Thánh hy vọng được thông phần và đoàn tụ với các ngài. Do đó, theo truyền thống rất cổ kính trong Hội Thánh, được phép đặt các ảnh tượng Chúa, Ðức Trinh Nữ Maria, và các thánh trong các thánh đường để tín hữu tôn kính. Các ảnh tượng ấy phải được bố trí trong thánh đường sao cho các tín hữu được dẫn dắt đến các mầu nhiệm đức tin được cử hành ở đấy. Nhưng phải liệu sao cho các ảnh tượng đó đừng nhiều quá và được bố trí thế nào để tín hữu khỏi chia trí khi tham dự những lễ nghi. Mỗi vị thánh chỉ nên có cùng một ảnh tượng. Cách chung, trong việc trang trí và sắp xếp thánh đường, việc đặt các ảnh tượng phải lưu tâm đến lòng đạo đức của toàn thể cộng đoàn và vẻ đẹp cùng giá trị của các ảnh tượng (số 318).

Từ những điều kể trên, mức độ mà Giáo hội mong muốn khi đề cập tới việc trang hoàng cung thánh là nên chừng mực vừa phải để làm sao cung thánh được trang nghiêm và thánh thiêng. Có ý kiến cho rằng sự mất mát ý nghĩa thánh thiêng nhiều nhất tại các nhà thờ trong thời kỳ hiện nay là do lơ là hay không coi trọng cung thánh trong nhà của Chúa. Bởi vậy, nên giới hạn việc sử dụng các biểu tượng không liên quan trực tiếp đến chức năng của phụng vụ và tránh tạo ra những chướng ngại che mất tầm nhìn của cộng đoàn tín hữu hay những chướng ngại cản ngăn việc tập trung của tín hữu vào việc cử hành mầu nhiệm thánh.

Áp dụng cụ thể là: việc trang hoàng cung thánh nên ổn định theo đúng nguyên tắc, nhưng vẫn nên để lại những chỗ rộng rãi cho những yếu tố truyền thống phản ánh đúng mùa phụng vụ [như vòng hoa trong mùa Vọng, các cây trạng nguyên vào mùa Giáng sinh chẳng hạn...], và thỉnh thoảng cũng có thể sử dụng những biểu ngữ thật sự mang tính chất nghệ thuật trong các ngày lễ trọng. Dù vậy, nhất thiết nên tránh việc sử dụng các bích chương thông điệp nơi cung thánh cũng như các phẩm vật khác như những bản vẽ của trẻ em vốn dĩ khiến các tín hữu chia trí, lo ra, và không thể tập trung vào phần trọng yếu của việc cử hành phụng vụ. Những vật thể này không nhất thiết phải bị loại ra khỏi khuôn viên nhà thờ, nhưng có thể được đặt tại những nơi khác thích hợp bên ngoài cung thánh.[4]

Cung thánh cũng có thể được coi như biên giới cho vị chủ tế đi chúc bình an, nghĩa là, ngài có thể chúc bình an cho các thừa tác viên, nhưng nên giới hạn ở trong cung thánh, để khỏi làm xáo trộn việc cử hành. Nếu muốn và với lý do chính đáng, ngài sẽ chúc bình an như thế cho vài tín hữu (QCSL 154; BTCĐ 72).

Lm Giuse Phạm Đình Ái, dòng Thánh Thể, SSS

______________________________________

Các chữ viết tắt:

BTCĐ - Huấn thị Bí tích Cứu độ (2004).

DX - Dựng xây từ những Viên đá Sống động (2006).

LNGM - Sách Lễ nghi Giám mục (1984).

QCSL - Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (2002).

1 Dom Robert Le Gall, “Cung thánh” trong Từ điển Phụng vụ (C.L.D.: 1982), 78.

2 Duncan Stroik, “The Altar as the Center of the Church - Principles of Design”  trong Adoremus Bulletin Online Edition, Vol. XVIII, No. 1 (March 2012).

3 Xc. Joyce Ann Zimmerman, The Ministry of Liturgy Enviremont (Minesota: The Liturgical Press, 2004), 20.

4 Edward McNamara, “Decorating the Sanctuary” trong The ZENIT Daily Dispatch (Rome, 25 May 2004).