Friday, December 8, 2023

ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM

ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM

NGÔI SAO  VÔ NHIỄM
TRÊN BẦU TRỜI MÙA VỌNG

 Trong ngày Truyền Tin, Đức Maria được Tổng Thần Gabrien chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng bà” (Luca 1:28). Một lời chào đã khiến Mẹ phải sửng sốt, bởi vì thiên sứ đã không chào hỏi bằng tên của Mẹ. Thay vì gọi là Maria, ngài đã gọi Mẹ là “Đấng đầy ân phúc”. Sau này, khi đi thăm bà chị họ, bà Isave cũng ca tụng Đức Maria rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Luca 1: 42-43). Trong bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat), chính Đức Maria cũng không dấu diếm hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ:  

 “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
 thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.

(Luca 1: 46-50)

 

Một trong những điều cao cả ấy là Ngài đã gìn giữ Đức Maria khỏi mắc Tội Tổ Tông ngay từ khi hoài thai trong lòng thân mẫu Anna.

Đức Maria không mắc tội, điều này có thể được suy ra từ lời chào “đầy ân phúc” của Tổng Thần Gabrien. Đối với nhiều tác giả Kinh Thánh, nếu Đức Maria đã tràn đầy tình thân với Thiên Chúa thì không thể nào phạm tội gì được. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin, Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội, 8 tháng 12 năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã suy niệm rằng: “Nếu Maria một cách hoàn toàn được Thiên Chúa bảo vệ, thì trong Mẹ không có chỗ cho tội lỗi… Mẹ được tạo dựng vô nhiễm để bằng một cách đón nhận hoàn toàn với tiếng ‘xin vâng’, Thiên Chúa đã đến trong thế giới.”

Đối với Thánh Augustinô thì, chúng ta phải loại trừ mọi tội lỗi cá nhân ra khỏi Đức Maria “vì chính danh dự của Thiên Chúa”. Giáo Hội cũng nhận định rằng, Đức Maria được “đầy ơn phúc”, cũng có nghĩa là Mẹ được cứu chuộc ngay từ đầu của giây phút thụ thai trong lòng thân mẫu. Và điều này là chính phần cốt lõi của tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria.

 TÍN ĐIỀU VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

 Theo thần học Thánh Mẫu, Giáo Hội đã tuyên tín 4 điều về Đức Maria: Mẹ Thiên Chúa, Đầu Thai Vô Nhiễm Tội, Trọn Đời Đồng Trinh, và Hồn Xác Lên Trời. Tín Điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội do Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố năm 1854.

Và dựa vào Giáo Lý Công Giáo thì: “Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc thụ thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ loài người.” (DS 2803)  

Các Giáo Phụ Đông Phương đã gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng Rất Thánh (Panaghia), và tôn vinh Mẹ là “Đấng không hề vương nhiễm một tội nào, như một thụ tạo mới do Chúa Thánh Thần nắn đúc và tác tạo” (x. LG 56). Nhờ ân sủng Thiên Chúa, Đức Maria suốt đời vẫn tinh tuyền không hề phạm tội riêng nào.[1]

Trong số các Giáo Phụ đã suy niệm, viết và đã đề cao ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria bao gồm: HippolytusOrigen, Ambrose, Maximus of TurinTheodotus of AncyraPelagius St. AugustineSt. ProclusJohn DamasceneSyrianSt. EphraemJacob of SarugSt. John DamasceneSt. Bernard.

 Đặc biệt là Giáo Hội Hy Lạp. Các Giáo Phụ Hy Lạp đã không bao giờ chính thức hoặc ai đó thảo luận, tranh biện về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria.

Các Ngài đã xưng tụng và ca ngợi đặc ân ấy bằng những từ ngữ hết sức kính trọng như Mẹ là nhà tạm, nơi cư ngụ xứng cho Đức Kitô. Mẹ trinh trong không tỳ vết, hoàn toàn thánh thiện, công chính vẹn toàn, không bao giờ vương mắc vào nọc độc của con rắn, và cũng không bị hơi độc của nói thổi vào.[2]    

Bốn năm sau ngày tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được tuyên tín, chính Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadetta tại Lộ Đức ngày 25 tháng 3 năm 1858 và xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”

 ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

 Nguyên Tội là tội do hai ông bà nguyên tổ Adong và Evà đã truyền lại cho con cháu.  Riêng đối với Đức Maria vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa dành cho Người đặc ân vô cùng quí giá là không mang vết nhơ Nguyên Tội ngay từ giây phút hoài thai trong lòng thân mẫu. Mẹ được như vậy là nhờ vào công nghiệp của Chúa Giêsu Con Mẹ sẽ sinh ra sau này. 

 Không một giây, một phút nào trong đời sống Đức Mẹ từ lúc thụ thai cho đến khi từ giã cõi đời và được rước lên trời cả hồn lẫn xác, Mẹ đã phải khuất phục ma quỉ trong tình trạng tội lỗi. Được tràn đầy ơn Chúa như lời chào của sứ thần Gabriel, cùng nghĩa Mẹ luôn luôn có Chúa ở cùng nên trọn đời Mẹ thuộc về Chúa. Đặc ân này đã trang bị cho Mẹ để Mẹ xứng đáng mang thai Con Thiên Chúa, làm Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể.

 Mặc dù hoàn toàn đầy ơn phúc, Mẹ vẫn không được miễn trừ đau khổ trong cuộc đời mình. Thay vào đó, Mẹ để Thiên Chúa hướng dẫn và đáp lại trong mọi hoàn cảnh bằng sự tín thác nơi Ngài. 

 Nhờ được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ luôn luôn lúc nào cũng hoàn hảo nhất, đẹp xinh nhất, luôn trong trắng, tươi xinh, không một vết tì ố nào có thể làm ô nhiễm tâm hồn Mẹ. Linh mục nhạc sỹ Kim Long đã cảm thán sự trinh trong vô nhiễm của Mẹ qua những lời ngợi ca rất tuyệt vời:

 ĐK. Mẹ tuyệt mỹ không hề vấn vương tội tình, diễm lệ như ánh bình minh. Mẹ hoàn toàn trong sạch tinh khiết như muôn hoa tươi xinh.
1. Mẹ là vườn khép kín, là mạch suối niêm phong. Mẹ là hoa thủy tiên thắm xinh muôn màu muôn hương.
 2. Mẹ tràn đầy thánh đức hồn trinh trắng cao quang. Mẹ là bông huệ tươi điểm tô vương tòa Thiên cung.
3. Triều thần cùng cất tiếng tụng ca Đức Trinh Vương. Trần hoàn chung lời ca tán dương muôn đời muôn phương.
4. Mẹ là nguồn ánh sáng hằng soi dẫn muôn dân. Tìm về quê bình an sống vui trong niềm hân hoan.

(Mẹ Tuyệt Mỹ. Lm. Kim Long)

 Ngay từ những thế kỷ đầu Kitô giáo, các tin hữu đã tin Đức Maria được ơn Vô nhiễm nguyên tội, nghĩa là Mẹ không bị vướng mắc vào một tội lỗi nào từ giây phút đầu thụ thai trong lòng mẹ. Nói một cách khác, Đức Maria được sinh ra trong tình trạng không mắc tội tổ tông, và giữ được tình trạng vô tội đó suốt cả cuộc đời của mình.

 Giáo huấn của Giáo hội về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ đã dựa trên nền tảng Thánh Kinh được tìm thấy trong Sáng Thế Ký, khi Thiên Chúa nói với Satan: “Ta sẽ đặt một mối thù giữa mi và người nữ, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, và mi sẽ rình cắn gót chân người.”(Sáng Thế 3:15) Mối hận thù này cho thấy cả hai bên không hề có sự thương lượng, nhượng bộ hay thỏa hiệp. Hơn nữa kẻ thù còn bị đạp nát đầu, mà chỉ rình cắn gót chân người đạp.

 Người nữ đây là hình ảnh của Đức Maria và dòng dõi người nữ ấy chính là Đức Giêsu. Satan là kẻ thù. Nó và dòng dõi của nó luôn luôn lúc nào cũng gieo mầm nọc độc là tội lỗi. Lôi kéo và cám dỗ con người xa Chúa, nhưng nọc độc của nó không hề động chạm đến gót chân của Đức Maria.  

 Và trong Tân Ước, qua trích đoạn Tin Mừng ngày lễ kính Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Luca đã dẫn lời Tổng Thần Gabriel nói với Đức Maria: “Hãy vui mừng vì cô được Chúa trời chúc phúc. Thiên Chúa ở cùng cô và cô có phúc hơn mọi người phụ nữ”(Luca 1:26-28).Với đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, tràn đầy ơn Chúa, luôn luôn có Chúa ở cùng, Đức Maria phải được coi là người phụ nữ đặc biệt, vượt trên và cao trọng hơn hết mọi phụ nữ. Chính Mẹ, Người tuy rất mực khiêm tốn chỉ coi mình như nữ tỳ hèn mọn Thiên Chúa cũng đã thốt lên trong lời Ngơi Khen của mình:  “Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.”

 “Lạy Mẹ Maria, thiên hạ đã nói về Mẹ bao nhiêu điều vinh hiển, vì từ nơi Mẹ mặt trời công chính đã mọc lên, là Đức Kitô Thiên Chúa chúng con.” [4]

 Và Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã chỉ cho nhân loại hãy nhìn lên Ngôi Sao Vô Nhiễm của Mẹ trên bầu trời Mùa Vọng như biểu hiện cho ngôi sao sẽ xuất hiện ở Phương Đông dẫn lối Ba Vua và muôn dân tìm gặp Đấng Cứu Thế Hạ Sinh tại Belem: “Ngôi Sao Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội chiếu sáng con đường Mùa Vọng. Ai tỏa sáng được như Mẹ? Mẹ là Ngôi Sao Hy Vọng, là Bình Minh của Ngày Cứu Chuộc.”  

---------------------------------------- 

Trần Mỹ Duyệt

 Tài liệu trích dẫn:

1. Bản dịch của Tổng Giáo phận Sài Gòn năm 1993. Giáo Lý Hội Thánh Công giáo.

2. https://www.newadvent.org cathen

3. CATHOLIC ENCYCLOPEDIA: Immaculate Conception

4. Ca Hiệp Lễ. Lễ Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm. Sách Lễ Giáo Dân.

 NGUỒN: https://tinmung.net/THDC-Hai-%20Ngoai/Tran%20My%20Duyet/July-2022/ngoi-sao-vo-nhiem-mua-vong.htm

 https://www.youtube.com/watch?v=f0WkvLS7A3s&t=7s

Monday, September 11, 2023

Tìm Hiểu Kinh Phụng Vụ


“Trong khi chu toàn nhiệm vụ tư tế của Đức Kitô, Giáo Hội cử hành phụng vụ giờ kinh, nhờ đó Giáo Hội lắng nghe Thiên Chúa nói với dân Ngài, tưởng nhớ mầu nhiệm ơn cứu chuộc, ca tụng Ngài không ngớt bằng lời kinh và khẩn cầu phần rỗi cho cả thế giới” (GL 1173)

“Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe. Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Ðừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Ki-tô. “(Ep 4,29-32)

Giờ Kinh Phụng Vụ là lời cầu nguyện liên lỉ của toàn thể Hội Thánh để thánh hóa ngày giờ và toàn bộ sinh hoạt của con người. Cầu nguyện là nhiệm vụ chính yếu của các Kitô hữu vì Hội Thánh làm theo lời Chúa Kitô dạy là “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1).
 
Thật vậy, ngay từ thời các tông đồ, các tín hữu đã chuyên cần cầu nguyện vào những thời khắc nhất định. Sách Công Vụ kể các môn đệ họp nhau cầu nguyện vào giờ thứ ba (Cv 2,15), vị thủ lãnh các tông đồ “lên sân thượng cầu nguyện vào giờ thứ sáu” (10,9), ông Phêrô và ông Gioan lên đền thờ vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín (3,1), “vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Xila cầu nguyện ca tụng Chúa” (16,25).

Dần dà với thời gian, “tại nhiều nơi đã sớm có thói quen dành những khoảng thời gian rõ rệt để cầu nguyện chung với nhau như vào giờ cuối ngày, khi trời tối và lúc lên đèn, hoặc giờ đầu ngày, lúc đêm tàn và ngày ló rạng” (KPV 1) để thánh hóa ngày sống của mình.

Những buổi cầu nguyện chung như thế dần dần tạo thành một chu kỳ giờ kinh nhất định, và đó là lời cầu nguyện của Hội Thánh cùng với Chúa Kitô và dâng lên Chúa Kitô. So với các cử hành phụng vụ khác, các Giờ Kinh Phụng Vụ có đặc điểm thánh hóa toàn bộ chu kỳ thời gian ngày và đêm, như lời thư gửi tín hữu Do Thái : “Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn luôn dùng lời ca tụng làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa” (Dt 13,15).

Các Giờ Kinh Phụng Vụ hiện nay được chia thành 5 giờ kinh khác nhau trong ngày, đó là kinh Sách, kinh Sáng, kinh Trưa, kinh Chiều và kinh Tối :

1 * Kinh Sách đề ra cho dân Chúa phương tiện phong phú nghiền ngẫm Kinh Thánh và những trang sách hay đẹp nhất của các nhà tu đức, cùng các Thánh Vịnh, thánh thi và lời nguyện.

2 * Kinh Sáng nhằm thánh hóa thời khắc ban mai khi bắt đầu một ngày mới để dâng lên Chúa những tác động đầu tiên của lòng trí chúng ta. Kinh Sáng được đọc vào lúc bình minh ló rạng để ca ngợi Đức Kitô Phục sinh là mặt trời công chính, là ánh sáng thật chiếu soi mọi người.

3 * Kinh Trưa là những giờ kinh nhỏ nằm giữa kinh Sáng và kinh Chiều, gồm các giờ kinh sau đây: kinh giờ ba (9 giờ sáng), kinh giờ sáu (12 giờ trưa) và kinh giờ chín (3 giờ chiều).Những ai sống đời chiêm niệm phải đọc chung với nhau ba giờ kinh Trưa này, còn những người khác được phép chọn một trong ba giờ kinh này vào những thời khắc phù hợp trong ngày.

4 * Kinh Chiều được cử hành vào lúc ban chiều khi ngày vừa xế bóng để tạ ơn những gì Chúa đã ban hoặc những việc lành chúng ta đã làm trong ngày. Kinh Chiều cũng nhắc nhớ đến công trình cứu chuộc của Chúa, và niềm hy vọng về ánh sáng không hề tàn lụi.

5 * Kinh Tối là “kinh cuối cùng trong ngày, đọc trước khi đi ngủ, dù đã quá nửa đêm”, để bày tỏ tâm tình thống hối và phó thác. Bóng đêm là hình ảnh của sự Ác và sự chết, thì kinh Tối là lời nguyện tin tưởng nài van, xin Chúa chúc lành cho một giấc ngủ bình an.

cgkpv

Trong 5 giờ kinh phụng vụ thì Kinh Sáng và Kinh Chiều là “hai giờ then chốt của kinh nguyện hằng ngày,nên phải coi như những giờ kinh chính yếu và vì thế không được bỏ qua” (KPV 37). Lời Chúa trong giờ kinh Phụng Vụ sáng nay thật ý nghĩa cho mỗi người chúng ta. Suy niệm từng câu từng chữ ta thấy đây là bài học Đức Ái mà Chúa mời gọi ta thực hành mỗi ngày.

III. CẤU TRÚC CỬ HÀNH GIỜ KINH PHỤNG VỤ.

“Các giờ Kinh Phụng vụ được quy định theo những luật lệ riêng, đặc biệt gồm những yếu tố thường gặp trong các buổi cử hành trong Kitô giáo và được sắp xếp như sau : là bao giờ cũng có Thánh Thi mở đầu, rồi đến Thánh Vịnh, đoạn một bài đọc Kinh Thánh dài hay ngắn và cuối cùng là các lời nguyện” (KPV 33).

IV. LUẬT BUỘC CỬ HÀNH CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ

“Hội Thánh đã đặc biệt ủy nhiệm cho những người có chức thánh phải cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, nên dù khi không có giáo dân, thì ai nấy đều phải chu toàn nhiệm vụ ấy, dĩ nhiên là với những sự thích nghi cần thiết. Quả vậy, Hội Thánh ủy nhiệm cho họ đọc các Giờ Kinh Phụng Vụ, để nhiệm vụ cầu nguyện của Đức Kitô được tiếp nối không ngừng trong Hội Thánh” (KPV 28).

Những người sau đây theo Giáo Luật (1174 $1) buộc phải đọc các giờ Kinh Phụng Vụ, không những đọc đầy đủ các giờ kinh mà còn phải cố gắng đọc cho phù hợp với giờ thật trong ngày, được chừng nào hay chừng đó (GL 1175) :

Đó là giám mục, linh mục, phó tế (phó tế vĩnh viễn cũng nên đọc mỗi ngày ít là một phần các Giờ Kinh Phụng Vụ), các kinh sĩ hội nhà thờ chính tòa (phải đọc trong cung thánh), những cộng đoàn tu sĩ có luật buộc đọc các Giờ Kinh Phụng Vụ (vd: Châu Sơn), những cộng đoàn tu sĩ khác cũng nên tùy nghi đọc một vài giờ kinh phụng vụ (vd: Mến Thánh Giá), và cả anh chị em giáo dân cũng được khuyến khích nên đọc một vài giờ kinh phụng vụ, như Kinh Sáng và Kinh Chiều (vd: Huynh đoàn giáo dân Đaminh).

TÍNH GIỜ KINH PHỤNG VỤ

Kinh Sáng:  Lúc 9:30 tối Việt Nam (trước giờ kinh thứ Nhất 1 tiếng)

Kinh Chiều: Lúc 9:00 sáng Việt Nam (trước giờ kinh thứ Hai 1 tiếng)

Cách mở sách đọc Mùa Thường Niên của 4 Tuần trong sách “Các Giờ Kinh Phụng Vụ”:

Thí dụ: Hôm nay ngày thứ Hai Tuần 26 Thường Niên,  Lấy 26 / 4 = 6 dư lại 2=> Đọc Thứ Hai & Tuần 2

Thí dụ: Hôm nay ngày thứ Năm Tuần 12 Thường Niên,  Lấy 12 / 4 = 3 dư lại 0 => Đọc Thứ Năm & Tuần 4

CÁCH CẦU NGUYỆN GIỜ KINH PHỤNG VỤ 
Kinh Sáng và Kinh Chiều

1) Phần Giáo Đầu (đứng):  

a. Giờ kinh Sáng được mở đầu bằng câu:

“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con

Đáp lại: – Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”.

Sau đó đọc Điệp Ca (ĐC) theo ngày

Tiếp theo  Thánh Vịnh 94 (có thể thay thế một trong các Thánh Vịnh 99, 66 hay 23)

(Lưu Ý: Sau mỗi đoạn của Thánh Vịnh 94, 99, 66, 23 lập lại Điệp Ca theo ngày)

b. Giờ Kinh Chiều thì bắt đầu bằng câu:

“Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con – Đáp Lại: Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ”.
(Cúi đầu) Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,

cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,

(ngẩng đầu lên) tự muôn đời và chính hiện nay,

luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men. Ha-lê-lui-a.

(Mùa Chay: bỏ “Ha-lê-lui-a”.  Kinh chiều không đọc Thánh Vịnh giáo đầu)

2) Phần Thánh Thi (đứng):

(Lưu Ý: Không cần đọc kinh Vinh Danh sau Thánh Thi)

Kế nữa là một bài Thánh Thi mang tính thi vị và biểu lộ đặc tính của mỗi giờ kinh và mỗi ngày lễ.

3) Phần Ca Vịnh (Ngồi): (2 bài Thánh Vịnh và 1 bài Thánh Ca)

Bắt đầu bằng Điệp Ca của Thánh Vịnh hay Thánh Ca

Kết Thúc bằng kinh Vinh Danh….. và Điệp Ca

Trong các giờ kinh, Hội Thánh dùng các Thánh Vịnh là những bài thơ cổ xưa của Thánh Kinh Cựu Ước, cũng là Lời Chúa đã được Chúa Thánh Thần linh hứng, để giúp cầu nguyện. Những Thánh Vịnh này có sức nâng tâm hồn lên cùng Chúa, khơi động những tâm tình đạo đức thánh thiện, giúp tạ ơn khi gặp điều may mắn, niềm an ủi khi gặp nghịch cảnh. Tuy nhiên Thánh Vịnh cũng mới chỉ phác họa thời kỳ viên mãn nơi Chúa Kitô nên đôi khi cũng gặp những khó khăn khi các Thánh vịnh không trực tiếp nói với Chúa, hoặc những lời nguyền rủa quân thù… Nhưng Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng cho các tác giả Thánh Vịnh soạn ra những bài thơ ấy, lúc nào cũng ban ơn phù trợ giúp các tín hữu hát hay đọc các Thánh Vịnh.

Nếu muốn đọc Thánh Vịnh cho nghiêm chỉnh thì phải đọc mà nghiền ngẫm câu này tiếp nối câu kia, lòng lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng, vì Chúa Thánh Thần vẫn còn linh hứng cho tất cả những ai đạo đức sẵn sàng đón nhận ơn Người.

“Khi đọc Thánh Vịnh trong các Giờ Kinh Phụng Vụ thì ta không đọc nhân danh cá nhân, mà nhân danh Nhiệm Thể Chúa Kitô và có thể nói là đại diện cho chính Chúa Kitô nữa. Nếu nhớ như vậy, thì các khó khăn sẽ tan biến, khi thấy rằng những tâm tình sâu xa thầm kín của ta, lúc đọc Thánh Vịnh không trùng hợp với những tâm tình diễn tả trong Thánh Vịnh ; thí dụ, đang âu sầu, ảo não, lại gặp một Thánh Vịnh vui tươi, đang phấn khởi, lại gặp một Thánh Vịnh âu sầu” (KPV 108).

“Kinh Sáng gồm một Thánh Vịnh thích hợp với buổi sáng, rồi một thánh ca trích trong sách Cựu Ước, và một Thánh Vịnh nữa, thuộc loại ca ngợi, theo truyền thống của Hội Thánh. Kinh Chiều gồm hai Thánh Vịnh (hay hai đoạn, nếu Thánh Vịnh quá dài) thích hợp với bưổi chiều và thích hợp với việc cử hành chung với giáo dân, và một thánh ca lấy trong các thánh thư hoặc sách Khải Huyền” (KPV 43).

4) Phần Lời Chúa (ngồi):

Bài đọc vắn được chọn theo ngày trong tuần, theo mùa hay theo ngày lễ. Phải đọc và nghe bài này như đích thực là một bản công bố Lời Chúa” (KPV 45).

Để đáp lại Lời Chúa, thường có câu xướng đáp ngắn, để Lời Chúa ăn sâu hơn vào tâm trí.

Thí Dụ phần Xướng đáp
XÐ: Xin chúc tụng Ðức Chúa
* từ muôn thuở cho đến muôn đời.
X: Chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu. *

Xướng:Xin chúc tụng Ðức Chúa từ muôn thuở cho đến muôn đời.

Đáp:Xin chúc tụng Ðức Chúa từ muôn thuở cho đến muôn đời.

Xướng:Chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.

Đáp:từ muôn thuở cho đến muôn đời.

Mọi người:Vinh Danh Chúa Cha và Chúa Con, cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa

Xin chúc tụng Ðức Chúa từ muôn thuở cho đến muôn đời.

5) Phần Thánh Ca Tin Mừng (đứng):

Sau đó long trọng (đứng và làm dấu thánh giá) đọc Thánh Ca Tin Mừng với câu Điệp Ca riêng theo ngày theo mùa.

Giờ Kinh Sáng đọc Thánh Ca “Benedictus” (Chúc tụng Đức Chúa).

Giờ Kinh Chiều đọc Thánh Ca “Magnificat” (Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa)

Sau phần Thánh Ca Tin Mừng đọc kinh Vinh Danh Chúa Cha và Chúa Con…
Đây là những thánh ca vẫn được Hội Thánh từ ngàn xưa ưa thích.

6) Phần Lời Cầu (đứng):

Sau thánh ca Tin Mừng là các lời cầu: buổi sáng là để dâng ngày và công việc cho Chúa, buổi chiều là để xin ơn, và lời nguyện cuối cùng bao giờ cũng dành để cầu nguyện cho những người đã qua đời.

7) Kinh Lạy Cha (đứng):

Lạy Cha chúng con ở trên trời……

8) Lời Nguyện (đứng): kết thúc cùng với lời ban phép lành và giải tán.

CẦU NGUYỆN :

Cúi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,

Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.

Con mù lòa, bên vệ đường hành khất,

Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.

Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ,

Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà,

Họ khổ đau, họ kêu gào than thở,

Đừng để con cứ giả điếc làm ngơ.

Cúi lạy Ngài, xin mở rộng tay con,

Luôn nắm lại giữ khư khư tất cả,

Trước cửa nhà có người nghèo đói lả,

Xin dạy con biết chia sẻ vui lòng.

Cúi lạy Ngài, cho chân con vững chãi,

Để tiến lên dẫu đường xá hiểm nguy.

Nguyện theo Ngài, thập giá đâu quản ngại,

Chúa cầm tay mà dẫn bước con đi.

Cúi lạy Ngài, giữ lòng con tin tưởng,

Mặc ai bảo : Chúa đã chết đâu còn.

Khi chiều về gánh thời gian trĩu nặng,

Xin dừng chân ở lại với con luôn !

(Thánh thi Kinh Sách thứ Năm tuần II)

Kinh Phụng Vụ và Thánh Vịnh

Thánh vịnh 51: Lời sám hối của vua Đavít

Trong số các Thánh Vịnh do vua Đavít sáng tác có Thánh Vinh 51. Nó là thánh vịnh sám hồi nói lên tâm tình hối lỗi của vua Đavít, sau khi đã phạm tội ngoại tình với bà Bétsabêa, rồi thất bại trong âm mưu giấu tội của mình, nên ra lệnh sát hại Urigia chồng bà để đoạt vợ ông ta.Chương 11 sách Samuel I kể rằng:“Lúc xuân về, thời mà các vua ra quân, vua Ða-vít sai ông Giô-áp đi, cùng với các bề tôi của vua và toàn thể Ít-ra-en. Họ giết hại con cái Am-mon và vây hãm Ráp-ba. Còn vua Ða-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem.Vào một buổi chiều, vua Ða-vít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời. Vua Ða-vít sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: “Ðó chính là bà Bát Se-va, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia người Khết.” Vua Ða-vít sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Ða-vít rằng: “Tôi có thai.”

Vua Ða-vít sai người đến nói với ông Giô-áp: “Hãy sai U-ri-gia, người Khết, về gặp ta.” Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về gặp vua Ða-vít. Khi ông U-ri-gia đến với vua, vua Ða-vít hỏi thăm về ông Giô-áp, về quân binh, về chiến sự. Rồi vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: “Hãy xuống nhà của ngươi và rửa chân.” Ông U-ri-gia ra khỏi đền vua, có người bưng ra một phần thức ăn của nhà vua theo sau. Nhưng ông U-ri-gia nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của vua, và ông không xuống nhà mình.

Người ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: “Ông U-ri-gia đã không xuống nhà ông.” Vua Ða-vít hỏi ông U-ri-gia: “Chẳng phải ngươi đi đường xa mới về ư? Tại sao ngươi không xuống nhà của ngươi?” Ông U-ri-gia thưa với vua Ða-vít: “Hòm Bia cũng như Ít-ra-en và Giu-đa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Giô-áp và các bề tôi của hoàng thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao? Tôi xin lấy mạng sống của ngài, lấy chính mạng sống của ngài mà thề: tôi sẽ không làm điều ấy!” Vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: “Hãy ở lại đây hôm nay nữa, ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Ông U-ri-gia ở lại Giê-ru-sa-lem ngày hôm đó. Ngày hôm sau, vua Ða-vít mời ông; ông ăn uống trước mặt vua, và vua cho ông uống say. Ðến chiều, ông ra nằm giường của ông cùng với các bề tôi của vua, nhưng không xuống nhà mình.

Sáng hôm sau, vua Ða-vít viết thư cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia mang đi. Trong thư, vua viết rằng: “Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.” Ông Giô-áp đang thám sát thành liền để ông U-ri-gia ở chỗ ông biết là có quân hùng mạnh nhất. Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Giô-áp. Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua Ða-vít đã ngã gục, và ông U-ri-gia, người Khết, cũng chết.

Vợ ông U-ri-gia nghe tin ông U-ri-gia, chồng mình, đã chết, thì làm ma cho chồng. Khi tang lễ đã qua, vua Ða-vít sai người đi đón nàng về nhà mình. Nàng trở thành vợ vua và sinh cho vua một con trai. Nhưng hành động của vua Ða-vít không đẹp lòng Ðức Chúa. Ngôn sứ Nathan được Chúa sai đến trách nhà vua, nhưng ông đã khôn khéo dùng một dụ ngôn để cho chính miệng vua kết án tội của mình.

Ngôn sứ vào gặp và nói với vua: “Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái. Có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông.”

Vua Ða-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than: “Có Ðức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót.” Ông Na-than nói với vua Ða-vít: “Kẻ đó chính là ngài! Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. Ta đã ban cho ngươi nhà của vua ngươi, và đã đặt các người vợ của vua vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Ðức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm U-ri-gia, người Khết; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ ngươi.

“Ðức Chúa phán thế này: Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây họa cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật.”

Bấy giờ vua Ða-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Ðức Chúa.” Ông Na-than nói với vua Ða-vít: “Về phía Ðức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết. Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Ðức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết.” Rồi ông Na-than trở về nhà.

Trong Thánh Vịnh 51 vua Đavít xin Chúa tha tội cho ông. Ông thưa với Người:

“Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho : lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.  Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.  Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. Xin cho con được  nghe tiếng reo mừng hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm. Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.  Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.  Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con;  đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.  Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ, xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính. Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài. Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê. Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on, thành luỹ Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại. Bấy giờ Ngài vui nhận tế phẩm luật truyền, lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế. Bấy giờ thiên hạ giết bò tơ dâng trên bàn thờ Chúa.”

Thánh vịnh 51 là lời cầu tha thiết vua Đavít dâng lên trước mặt  Thiên Chúa. Nó diễn tả nhận thức sâu xa về số phận con người tội lỗi ngay từ lúc còn là bào thai. Nhưng thánh vịnh cũng chúc tụng lòng nhân từ xót thương của Thiên Chúa. Thánh vịnh được phụng vụ dùng đặc biệt trong các lễ nghi thống hối và trong mùa Chay, là thời gian Giáo Hội mời gọi tín hữu hoán cả, trở về với Chúa, bằng nỗ lực thay đổi cung cách suy tư hành xử, cải tà quy chính, khước tù tội lỗi, ăn ngay ở lành, và sống bác ái quảng đại trợ giúp những người nghèo nàn túng thiếu nhất.

Linh Tiến Khải – Vatican

Theo https://radioltxc.org/2022/05/21/cac-gio-kinh-phung-vu/