Trong ngày Truyền Tin, Đức Maria được Tổng Thần Gabrien chào: “Mừng vui
lên, hỡi Đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng bà” (Luca 1:28). Một lời chào đã
khiến Mẹ phải sửng sốt, bởi vì thiên sứ đã không chào hỏi bằng tên của Mẹ. Thay
vì gọi là Maria, ngài đã gọi Mẹ là “Đấng đầy ân phúc”. Sau này, khi đi thăm bà
chị họ, bà Isave cũng ca tụng Đức Maria rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người
phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được
Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Luca 1: 42-43). Trong bài ca “Ngợi
Khen” (Magnificat), chính Đức Maria cũng không dấu diếm hồng ân mà Thiên Chúa
đã ban cho Mẹ:
“Linh
hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”. (Luca 1: 46-50)
Một trong những điều cao cả ấy là Ngài đã gìn giữ Đức Maria khỏi mắc
Tội Tổ Tông ngay từ khi hoài thai trong lòng thân mẫu Anna.
Đức Maria không mắc tội, điều này có thể được suy ra từ lời chào
“đầy ân phúc” của Tổng Thần Gabrien. Đối với nhiều tác giả Kinh
Thánh, nếu Đức Maria đã tràn đầy tình thân với Thiên Chúa thì
không thể nào phạm tội gì được. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin, Lễ Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên tội, 8 tháng 12 năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã suy niệm rằng:
“Nếu Maria một cách hoàn toàn được Thiên Chúa bảo vệ, thì trong Mẹ không có chỗ
cho tội lỗi… Mẹ được tạo dựng vô nhiễm để bằng một cách đón nhận hoàn toàn với
tiếng ‘xin vâng’, Thiên Chúa đã đến trong thế giới.”
Đối với Thánh Augustinôthì,
chúng ta phải loại trừ mọi tội lỗi cá nhân ra khỏi Đức
Maria “vì chính danh dự của Thiên Chúa”. Giáo Hội cũng nhận định
rằng, Đức Maria được “đầy ơn phúc”, cũng có nghĩa là Mẹ được cứu chuộc ngay từ
đầu của giây phút thụ thai trong lòng thân mẫu. Và điều này là chính phần cốt
lõi của tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria.
TÍN
ĐIỀU VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Theo thần học Thánh Mẫu, Giáo Hội đã tuyên tín 4 điều về Đức Maria: Mẹ
Thiên Chúa, Đầu Thai Vô Nhiễm Tội, Trọn Đời Đồng Trinh, và Hồn Xác Lên
Trời. Tín Điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội do Đức Giáo Hoàng Piô IXcông
bố năm 1854.
Và dựa vào Giáo Lý Công Giáo thì: “Đức Trinh
Nữ Diễm Phúc Maria, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc thụ
thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công
nghiệp của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ loài người.” (DS 2803)
Các Giáo Phụ Đông Phương đã gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng
Rất Thánh (Panaghia), và tôn vinh Mẹ là “Đấng không hề vương nhiễm
một tội nào, như một thụ tạo mới do Chúa Thánh Thần nắn đúc và tác
tạo” (x. LG 56). Nhờ ân sủng Thiên Chúa, Đức Maria suốt đời vẫn tinh tuyền
không hề phạm tội riêng nào.[1]
Đặc biệt là Giáo Hội Hy Lạp. Các Giáo Phụ Hy Lạp đã không bao giờ chính
thức hoặc ai đó thảo luận, tranh biện về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức
Maria.
Các Ngài đã xưng tụng và ca ngợi đặc ân ấy bằng những từ ngữ hết sức
kính trọng như Mẹ là nhà tạm, nơi cư ngụ xứng cho Đức Kitô. Mẹ trinh trong
không tỳ vết, hoàn toàn thánh thiện, công chính vẹn toàn, không bao giờ vương
mắc vào nọc độc của con rắn, và cũng không bị hơi độc của nói thổi vào.[2]
Bốn năm sau ngày tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được tuyên tín, chính Đức
Mẹ đã hiện ra với Bernadetta tại Lộ Đức ngày 25 tháng 3 năm 1858 và xác nhận:
“Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”
ĐỨC
MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Nguyên Tội là tội do hai ông bà nguyên tổ Adong và Evà đã truyền lại
cho con cháu. Riêng đối với Đức Maria vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng
Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa dành cho Người đặc ân vô cùng quí giá là không
mang vết nhơ Nguyên Tội ngay từ giây phút hoài thai trong lòng thân mẫu. Mẹ
được như vậy là nhờ vào công nghiệp của Chúa Giêsu Con Mẹ sẽ sinh ra sau
này.
Không một giây, một phút nào trong đời sống Đức Mẹ từ lúc thụ thai cho
đến khi từ giã cõi đời và được rước lên trời cả hồn lẫn xác, Mẹ đã phải khuất
phục ma quỉ trong tình trạng tội lỗi. Được tràn đầy ơn Chúa như lời chào của sứ
thần Gabriel, cùng nghĩa Mẹ luôn luôn có Chúa ở cùng nên trọn đời Mẹ thuộc về
Chúa. Đặc ân này đã trang bị cho Mẹ để Mẹ xứng đáng mang thai Con Thiên Chúa,
làm Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể.
Mặc dù hoàn toàn đầy ơn phúc, Mẹ vẫn không được miễn trừ đau khổ trong
cuộc đời mình. Thay vào đó, Mẹ để Thiên Chúa hướng dẫn và đáp lại trong mọi
hoàn cảnh bằng sự tín thác nơi Ngài.
Nhờ được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ luôn luôn lúc nào cũng hoàn hảo
nhất, đẹp xinh nhất, luôn trong trắng, tươi xinh, không một vết tì ố nào có thể
làm ô nhiễm tâm hồn Mẹ. Linh mục nhạc sỹ Kim Long đã cảm thán sự trinh trong vô
nhiễm của Mẹ qua những lời ngợi ca rất tuyệt vời:
ĐK. Mẹ tuyệt mỹ không hề vấn vương tội tình, diễm lệ
như ánh bình minh. Mẹ hoàn toàn trong sạch tinh khiết như muôn hoa tươi xinh.
1. Mẹ là vườn khép kín, là mạch suối niêm phong. Mẹ là hoa thủy tiên thắm xinh
muôn màu muôn hương.
2. Mẹ tràn đầy thánh đức hồn trinh trắng cao quang. Mẹ là bông huệ tươi
điểm tô vương tòa Thiên cung.
3. Triều thần cùng cất tiếng tụng ca Đức Trinh Vương. Trần hoàn chung lời ca
tán dương muôn đời muôn phương.
4. Mẹ là nguồn ánh sáng hằng soi dẫn muôn dân. Tìm về quê bình an sống vui
trong niềm hân hoan.
(Mẹ Tuyệt Mỹ. Lm. Kim Long)
Ngay từ những thế kỷ đầu Kitô giáo, các tin hữu đã tin Đức Maria được
ơn Vô nhiễm nguyên tội, nghĩa là Mẹ không bị vướng mắc vào một tội lỗi nào từ
giây phút đầu thụ thai trong lòng mẹ. Nói một cách khác, Đức Maria được sinh ra
trong tình trạng không mắc tội tổ tông, và giữ được tình trạng vô tội đó suốt
cả cuộc đời của mình.
Giáo huấn của Giáo hội về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ đã
dựa trên nền tảng Thánh Kinh được tìm thấy trong Sáng Thế Ký, khi Thiên Chúa
nói với Satan: “Ta sẽ đặt một mối
thù giữa mi và người nữ, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người nữ. Người sẽ
đạp nát đầu mi, và mi sẽ rình cắn gót chân người.”(Sáng Thế 3:15) Mối
hận thù này cho thấy cả hai bên không hề có sự thương lượng, nhượng bộ hay thỏa
hiệp. Hơn nữa kẻ thù còn bị đạp nát đầu, mà chỉ rình cắn gót chân người đạp.
Người nữ đây là hình ảnh của Đức Maria và dòng dõi người nữ ấy chính là
Đức Giêsu. Satan là kẻ thù. Nó và dòng dõi của nó luôn luôn lúc nào cũng gieo
mầm nọc độc là tội lỗi. Lôi kéo và cám dỗ con người xa Chúa, nhưng nọc độc của
nó không hề động chạm đến gót chân của Đức Maria.
Và trong Tân Ước, qua trích đoạn Tin Mừng ngày lễ kính Mẹ Vô Nhiễm,
Thánh Luca đã dẫn lời Tổng Thần Gabriel nói với Đức Maria: “Hãy vui mừng vì cô được Chúa trời chúc
phúc. Thiên Chúa ở cùng cô và cô có phúc hơn mọi người phụ nữ”(Luca 1:26-28).Với
đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, tràn đầy ơn Chúa, luôn luôn có Chúa ở cùng, Đức
Maria phải được coi là người phụ nữ đặc biệt, vượt trên và cao trọng hơn hết
mọi phụ nữ. Chính Mẹ, Người tuy rất mực khiêm tốn chỉ coi mình như nữ tỳ hèn
mọn Thiên Chúa cũng đã thốt lên trong lời Ngơi Khen của mình: “Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm
phúc.”
“Lạy Mẹ Maria, thiên hạ đã nói về Mẹ bao nhiêu điều vinh hiển, vì từ nơi Mẹ
mặt trời công chính đã mọc lên, là Đức Kitô Thiên Chúa chúng con.”[4]
Và Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã chỉ cho nhân loại hãy nhìn lên Ngôi
Sao Vô Nhiễm của Mẹ trên bầu trời Mùa Vọng như biểu hiện cho ngôi sao sẽ xuất
hiện ở Phương Đông dẫn lối Ba Vua và muôn dân tìm gặp Đấng Cứu Thế Hạ Sinh tại
Belem: “Ngôi Sao Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội chiếu sáng con đường Mùa Vọng. Ai
tỏa sáng được như Mẹ? Mẹ là Ngôi Sao Hy Vọng, là Bình Minh của Ngày Cứu
Chuộc.”
----------------------------------------
Trần Mỹ Duyệt
Tài liệu trích dẫn:
1. Bản dịch của Tổng Giáo
phận Sài Gòn năm 1993. Giáo Lý Hội Thánh Công giáo.
“Trong khi chu toàn nhiệm vụ
tư tế của Đức Kitô, Giáo Hội cử hành phụng vụ giờ kinh, nhờ đó Giáo Hội
lắng nghe Thiên Chúa nói với dân Ngài, tưởng nhớ mầu nhiệm ơn cứu chuộc,
ca tụng Ngài không ngớt bằng lời kinh và khẩn cầu phần rỗi cho cả thế
giới” (GL 1173)
“Anh
em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những
lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe. Anh em chớ làm
phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên
anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Ðừng bao giờ
chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại
trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có
lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho
anh em trong Ðức Ki-tô. “(Ep 4,29-32)
Giờ Kinh Phụng Vụ là lời cầu nguyện
liên lỉ của toàn thể Hội Thánh để thánh hóa ngày giờ và toàn bộ sinh
hoạt của con người. Cầu nguyện là nhiệm vụ chính yếu của các Kitô hữu vì
Hội Thánh làm theo lời Chúa Kitô dạy là “phải cầu nguyện luôn, không
được nản chí” (Lc 18,1).
Thật vậy, ngay từ thời
các tông đồ, các tín hữu đã chuyên cần cầu nguyện vào những thời khắc
nhất định. Sách Công Vụ kể các môn đệ họp nhau cầu nguyện vào giờ thứ ba
(Cv 2,15), vị thủ lãnh các tông đồ “lên sân thượng cầu nguyện vào giờ
thứ sáu” (10,9), ông Phêrô và ông Gioan lên đền thờ vào buổi cầu nguyện
giờ thứ chín (3,1), “vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Xila cầu
nguyện ca tụng Chúa” (16,25).
Dần dà với thời gian, “tại nhiều nơi đã sớm có thói quen dành những
khoảng thời gian rõ rệt để cầu nguyện chung với nhau như vào giờ cuối
ngày, khi trời tối và lúc lên đèn, hoặc giờ đầu ngày, lúc đêm tàn và
ngày ló rạng” (KPV 1) để thánh hóa ngày sống của mình.
Những buổi cầu nguyện chung như thế dần dần tạo thành một chu kỳ giờ
kinh nhất định, và đó là lời cầu nguyện của Hội Thánh cùng với Chúa Kitô
và dâng lên Chúa Kitô. So với các cử hành phụng vụ khác, các Giờ Kinh
Phụng Vụ có đặc điểm thánh hóa toàn bộ chu kỳ thời gian ngày và đêm, như
lời thư gửi tín hữu Do Thái : “Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn luôn
dùng lời ca tụng làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa” (Dt 13,15).
Các Giờ Kinh Phụng Vụ hiện nay được chia thành 5 giờ kinh khác nhau
trong ngày, đó là kinh Sách, kinh Sáng, kinh Trưa, kinh Chiều và kinh
Tối :
1 * Kinh Sách
đề ra cho dân Chúa phương tiện phong phú nghiền ngẫm Kinh Thánh và những
trang sách hay đẹp nhất của các nhà tu đức, cùng các Thánh Vịnh, thánh
thi và lời nguyện.
2 * Kinh Sáng
nhằm thánh hóa thời khắc ban mai khi bắt đầu một ngày mới để dâng lên
Chúa những tác động đầu tiên của lòng trí chúng ta. Kinh Sáng được đọc
vào lúc bình minh ló rạng để ca ngợi Đức Kitô Phục sinh là mặt trời công
chính, là ánh sáng thật chiếu soi mọi người.
3 * Kinh Trưa
là những giờ kinh nhỏ nằm giữa kinh Sáng và kinh Chiều, gồm các giờ kinh
sau đây: kinh giờ ba (9 giờ sáng), kinh giờ sáu (12 giờ trưa) và kinh
giờ chín (3 giờ chiều).Những ai sống đời chiêm niệm phải đọc chung với
nhau ba giờ kinh Trưa này, còn những người khác được phép chọn một trong
ba giờ kinh này vào những thời khắc phù hợp trong ngày.
4 * Kinh Chiều
được cử hành vào lúc ban chiều khi ngày vừa xế bóng để tạ ơn những gì
Chúa đã ban hoặc những việc lành chúng ta đã làm trong ngày. Kinh Chiều
cũng nhắc nhớ đến công trình cứu chuộc của Chúa, và niềm hy vọng về ánh
sáng không hề tàn lụi.
5 * Kinh Tối là
“kinh cuối cùng trong ngày, đọc trước khi đi ngủ, dù đã quá nửa đêm”,
để bày tỏ tâm tình thống hối và phó thác. Bóng đêm là hình ảnh của sự Ác
và sự chết, thì kinh Tối là lời nguyện tin tưởng nài van, xin Chúa chúc
lành cho một giấc ngủ bình an.
Trong 5 giờ kinh phụng vụ thì Kinh Sáng và Kinh Chiều là “hai giờ then chốt của kinh nguyện hằng ngày,nên
phải coi như những giờ kinh chính yếu và vì thế không được bỏ qua” (KPV
37). Lời Chúa trong giờ kinh Phụng Vụ sáng nay thật ý nghĩa cho mỗi
người chúng ta. Suy niệm từng câu từng chữ ta thấy đây là bài học Đức Ái
mà Chúa mời gọi ta thực hành mỗi ngày.
III. CẤU TRÚC CỬ HÀNH GIỜ KINH PHỤNG VỤ.
“Các giờ Kinh Phụng vụ được quy định theo những luật lệ riêng, đặc
biệt gồm những yếu tố thường gặp trong các buổi cử hành trong Kitô giáo
và được sắp xếp như sau : là bao giờ cũng có Thánh Thi mở đầu, rồi đến
Thánh Vịnh, đoạn một bài đọc Kinh Thánh dài hay ngắn và cuối cùng là các
lời nguyện” (KPV 33).
IV. LUẬT BUỘC CỬ HÀNH CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ
“Hội Thánh đã đặc biệt ủy nhiệm cho những người có chức thánh phải cử
hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, nên dù khi không có giáo dân, thì ai nấy
đều phải chu toàn nhiệm vụ ấy, dĩ nhiên là với những sự thích nghi cần
thiết. Quả vậy, Hội Thánh ủy nhiệm cho họ đọc các Giờ Kinh Phụng Vụ, để
nhiệm vụ cầu nguyện của Đức Kitô được tiếp nối không ngừng trong Hội
Thánh” (KPV 28).
Những người sau đây theo Giáo Luật (1174 $1) buộc phải đọc
các giờ Kinh Phụng Vụ, không những đọc đầy đủ các giờ kinh mà còn phải
cố gắng đọc cho phù hợp với giờ thật trong ngày, được chừng nào hay
chừng đó (GL 1175) :
Đó là giám mục, linh mục, phó tế (phó tế vĩnh viễn cũng nên đọc mỗi ngày ít là một phần các Giờ Kinh Phụng Vụ), các kinh sĩ hội nhà thờ chính tòa (phải đọc trong cung thánh), những cộng đoàn tu sĩ có luật buộc đọc các Giờ Kinh Phụng Vụ (vd: Châu Sơn), những cộng đoàn tu sĩ khác cũng nên tùy nghi đọc một vài giờ kinh phụng vụ (vd: Mến Thánh Giá), và cả anh chị em giáo dân cũng được khuyến khích nên đọc một vài giờ kinh phụng vụ, như Kinh Sáng và Kinh Chiều (vd: Huynh đoàn giáo dân Đaminh).
TÍNH GIỜ KINH PHỤNG VỤ
Kinh Sáng: Lúc 9:30 tối Việt Nam (trước giờ kinh thứ Nhất 1 tiếng)
Kinh Chiều: Lúc 9:00 sáng Việt Nam (trước giờ kinh thứ Hai 1 tiếng)
Cách mở sách đọc Mùa Thường Niên của 4 Tuần trong sách “Các Giờ Kinh Phụng Vụ”:
Thí dụ: Hôm nay ngày thứ Hai Tuần 26 Thường Niên, Lấy 26 / 4 = 6 dư lại 2=> Đọc Thứ Hai & Tuần 2
Thí dụ: Hôm nay ngày thứ Năm Tuần 12 Thường Niên, Lấy 12 / 4 = 3 dư lại 0 => Đọc Thứ Năm & Tuần 4
CÁCH CẦU NGUYỆN GIỜ KINH PHỤNG VỤ Kinh Sáng và Kinh Chiều†
1) Phần Giáo Đầu (đứng):
a. Giờ kinh Sáng được mở đầu bằng câu:
“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con
Đáp lại: – Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”.
Sau đó đọc Điệp Ca (ĐC) theo ngày
Tiếp theo Thánh Vịnh 94 (có thể thay thế một trong các Thánh Vịnh 99, 66 hay 23)
(Lưu Ý: Sau mỗi đoạn của Thánh Vịnh 94, 99, 66, 23 lập lại Điệp Ca theo ngày)
b. Giờ Kinh Chiều thì bắt đầu bằng câu:
“Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con – Đáp Lại: Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ”. (Cúi đầu) Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
(ngẩng đầu lên) tự muôn đời và chính hiện nay,
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men. Ha-lê-lui-a.
(Mùa Chay: bỏ “Ha-lê-lui-a”. Kinh chiều không đọc Thánh Vịnh giáo đầu)
2) Phần Thánh Thi (đứng):
(Lưu Ý: Không cần đọc kinh Vinh Danh sau Thánh Thi)
Kế nữa là một bài Thánh Thi mang tính thi vị và biểu lộ đặc tính của mỗi giờ kinh và mỗi ngày lễ.
3) Phần Ca Vịnh (Ngồi): (2 bài Thánh Vịnh và 1 bài Thánh Ca)
Bắt đầu bằng Điệp Ca của Thánh Vịnh hay Thánh Ca
Kết Thúc bằng kinh Vinh Danh….. và Điệp Ca
Trong các giờ kinh, Hội Thánh dùng các Thánh Vịnh là những bài thơ cổ
xưa của Thánh Kinh Cựu Ước, cũng là Lời Chúa đã được Chúa Thánh Thần
linh hứng, để giúp cầu nguyện. Những Thánh Vịnh này có sức nâng tâm hồn
lên cùng Chúa, khơi động những tâm tình đạo đức thánh thiện, giúp tạ ơn
khi gặp điều may mắn, niềm an ủi khi gặp nghịch cảnh. Tuy nhiên Thánh
Vịnh cũng mới chỉ phác họa thời kỳ viên mãn nơi Chúa Kitô nên đôi khi
cũng gặp những khó khăn khi các Thánh vịnh không trực tiếp nói với Chúa,
hoặc những lời nguyền rủa quân thù… Nhưng Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh
hứng cho các tác giả Thánh Vịnh soạn ra những bài thơ ấy, lúc nào cũng
ban ơn phù trợ giúp các tín hữu hát hay đọc các Thánh Vịnh.
Nếu muốn đọc Thánh Vịnh cho nghiêm chỉnh thì phải đọc mà nghiền ngẫm
câu này tiếp nối câu kia, lòng lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng, vì Chúa
Thánh Thần vẫn còn linh hứng cho tất cả những ai đạo đức sẵn sàng đón
nhận ơn Người.
“Khi đọc Thánh Vịnh trong các Giờ Kinh Phụng Vụ thì ta không đọc nhân
danh cá nhân, mà nhân danh Nhiệm Thể Chúa Kitô và có thể nói là đại
diện cho chính Chúa Kitô nữa. Nếu nhớ như vậy, thì các khó khăn sẽ tan
biến, khi thấy rằng những tâm tình sâu xa thầm kín của ta, lúc đọc Thánh
Vịnh không trùng hợp với những tâm tình diễn tả trong Thánh Vịnh ; thí
dụ, đang âu sầu, ảo não, lại gặp một Thánh Vịnh vui tươi, đang phấn
khởi, lại gặp một Thánh Vịnh âu sầu” (KPV 108).
“Kinh Sáng gồm một Thánh Vịnh thích hợp với buổi sáng, rồi một thánh
ca trích trong sách Cựu Ước, và một Thánh Vịnh nữa, thuộc loại ca ngợi,
theo truyền thống của Hội Thánh. Kinh Chiều gồm hai Thánh Vịnh (hay hai đoạn, nếu Thánh Vịnh quá dài)
thích hợp với bưổi chiều và thích hợp với việc cử hành chung với giáo
dân, và một thánh ca lấy trong các thánh thư hoặc sách Khải Huyền” (KPV 43).
4) Phần Lời Chúa (ngồi):
Bài đọc vắn được chọn theo ngày trong tuần, theo mùa hay theo ngày
lễ. Phải đọc và nghe bài này như đích thực là một bản công bố Lời Chúa” (KPV 45).
Để đáp lại Lời Chúa, thường có câu xướng đáp ngắn, để Lời Chúa ăn sâu hơn vào tâm trí.
Thí Dụ phần Xướng đáp XÐ: Xin chúc tụng Ðức Chúa * từ muôn thuở cho đến muôn đời. X: Chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu. *
Xướng:Xin chúc tụng Ðức Chúa từ muôn thuở cho đến muôn đời.
Đáp:Xin chúc tụng Ðức Chúa từ muôn thuở cho đến muôn đời.
Xướng:Chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Đáp:từ muôn thuở cho đến muôn đời.
Mọi người:Vinh Danh Chúa Cha và Chúa Con, cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa
Xin chúc tụng Ðức Chúa từ muôn thuở cho đến muôn đời.
5) Phần Thánh Ca Tin Mừng (đứng):
Sau đó long trọng (đứng và làm dấu thánh giá) đọc Thánh Ca Tin Mừng với câu Điệp Ca riêng theo ngày theo mùa.
Giờ Kinh Sáng đọc Thánh Ca “Benedictus” (Chúc tụng Đức Chúa).
Giờ Kinh Chiều đọc Thánh Ca “Magnificat” (Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa)
Sau phần Thánh Ca Tin Mừng đọc kinh Vinh Danh Chúa Cha và Chúa Con… Đây là những thánh ca vẫn được Hội Thánh từ ngàn xưa ưa thích.
6) Phần Lời Cầu (đứng):
Sau thánh ca Tin Mừng là các lời cầu: buổi sáng là để dâng ngày và
công việc cho Chúa, buổi chiều là để xin ơn, và lời nguyện cuối cùng bao
giờ cũng dành để cầu nguyện cho những người đã qua đời.
7) Kinh Lạy Cha (đứng):
Lạy Cha chúng con ở trên trời……
8) Lời Nguyện (đứng): kết thúc cùng với lời ban phép lành và giải tán.
CẦU NGUYỆN :
Cúi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,
Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.
Con mù lòa, bên vệ đường hành khất,
Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.
Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ,
Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà,
Họ khổ đau, họ kêu gào than thở,
Đừng để con cứ giả điếc làm ngơ.
Cúi lạy Ngài, xin mở rộng tay con,
Luôn nắm lại giữ khư khư tất cả,
Trước cửa nhà có người nghèo đói lả,
Xin dạy con biết chia sẻ vui lòng.
Cúi lạy Ngài, cho chân con vững chãi,
Để tiến lên dẫu đường xá hiểm nguy.
Nguyện theo Ngài, thập giá đâu quản ngại,
Chúa cầm tay mà dẫn bước con đi.
Cúi lạy Ngài, giữ lòng con tin tưởng,
Mặc ai bảo : Chúa đã chết đâu còn.
Khi chiều về gánh thời gian trĩu nặng,
Xin dừng chân ở lại với con luôn !
(Thánh thi Kinh Sách thứ Năm tuần II)
Kinh Phụng Vụ và Thánh Vịnh
Thánh vịnh 51: Lời sám hối của vua Đavít
Trong số các Thánh Vịnh do vua Đavít sáng tác
có Thánh Vinh 51. Nó là thánh vịnh sám hồi nói lên tâm tình hối lỗi của
vua Đavít, sau khi đã phạm tội ngoại tình với bà Bétsabêa, rồi thất bại
trong âm mưu giấu tội của mình, nên ra lệnh sát hại Urigia chồng bà để
đoạt vợ ông ta.Chương 11 sách Samuel I kể rằng:“Lúc xuân về, thời mà các
vua ra quân, vua Ða-vít sai ông Giô-áp đi, cùng với các bề tôi của vua
và toàn thể Ít-ra-en. Họ giết hại con cái Am-mon và vây hãm Ráp-ba. Còn
vua Ða-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem.Vào một buổi chiều, vua Ða-vít từ
trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân
thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời. Vua
Ða-vít sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: “Ðó
chính là bà Bát Se-va, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia người
Khết.” Vua Ða-vít sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và
vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng
trở về nhà. Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua
Ða-vít rằng: “Tôi có thai.”
Vua Ða-vít sai người đến nói với ông
Giô-áp: “Hãy sai U-ri-gia, người Khết, về gặp ta.” Ông Giô-áp sai ông
U-ri-gia về gặp vua Ða-vít. Khi ông U-ri-gia đến với vua, vua Ða-vít hỏi
thăm về ông Giô-áp, về quân binh, về chiến sự. Rồi vua Ða-vít bảo ông
U-ri-gia: “Hãy xuống nhà của ngươi và rửa chân.” Ông U-ri-gia ra khỏi
đền vua, có người bưng ra một phần thức ăn của nhà vua theo sau. Nhưng
ông U-ri-gia nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của vua, và ông
không xuống nhà mình.
Người ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: “Ông U-ri-gia đã không xuống
nhà ông.” Vua Ða-vít hỏi ông U-ri-gia: “Chẳng phải ngươi đi đường xa mới
về ư? Tại sao ngươi không xuống nhà của ngươi?” Ông U-ri-gia thưa với
vua Ða-vít: “Hòm Bia cũng như Ít-ra-en và Giu-đa đang ở lều, chủ tướng
tôi là ông Giô-áp và các bề tôi của hoàng thượng đang đóng trại ở ngoài
đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao? Tôi xin
lấy mạng sống của ngài, lấy chính mạng sống của ngài mà thề: tôi sẽ
không làm điều ấy!” Vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: “Hãy ở lại đây hôm nay
nữa, ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Ông U-ri-gia ở lại Giê-ru-sa-lem ngày
hôm đó. Ngày hôm sau, vua Ða-vít mời ông; ông ăn uống trước mặt vua, và
vua cho ông uống say. Ðến chiều, ông ra nằm giường của ông cùng với các
bề tôi của vua, nhưng không xuống nhà mình.
Sáng hôm sau, vua Ða-vít viết thư cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia
mang đi. Trong thư, vua viết rằng: “Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt
trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà
chết.” Ông Giô-áp đang thám sát thành liền để ông U-ri-gia ở chỗ ông
biết là có quân hùng mạnh nhất. Người trong thành xông ra, giao chiến
với ông Giô-áp. Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua
Ða-vít đã ngã gục, và ông U-ri-gia, người Khết, cũng chết.
Vợ ông U-ri-gia nghe tin ông U-ri-gia, chồng mình, đã chết, thì làm
ma cho chồng. Khi tang lễ đã qua, vua Ða-vít sai người đi đón nàng về
nhà mình. Nàng trở thành vợ vua và sinh cho vua một con trai. Nhưng hành
động của vua Ða-vít không đẹp lòng Ðức Chúa. Ngôn sứ Nathan được Chúa
sai đến trách nhà vua, nhưng ông đã khôn khéo dùng một dụ ngôn để cho
chính miệng vua kết án tội của mình.
Ngôn sứ vào gặp và nói với vua: “Có hai người ở trong cùng một thành,
một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và bò,
nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc
nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái
ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng
ông: ông coi nó như một đứa con gái. Có khách đến thăm người giàu, ông
này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người
lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt
đãi người đến thăm ông.”
Vua Ða-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than:
“Có Ðức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! Nó phải đền
gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng
thương xót.” Ông Na-than nói với vua Ða-vít: “Kẻ đó chính là ngài! Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong
ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay
vua Sa-un. Ta đã ban cho ngươi nhà của vua ngươi, và đã đặt các người vợ
của vua vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu
bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như
thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Ðức Chúa mà làm điều dữ trái
mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm U-ri-gia, người Khết; vợ y, ngươi đã
cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà
giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi
vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ
ngươi.
“Ðức Chúa phán thế này: Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây họa
cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người
khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật
vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt
toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật.”
Bấy giờ vua Ða-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Ðức Chúa.”
Ông Na-than nói với vua Ða-vít: “Về phía Ðức Chúa, Người đã bỏ qua tội
của ngài; ngài sẽ không phải chết. Thế nhưng vì trong việc này ngài đã
cả gan khinh thị Ðức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải
chết.” Rồi ông Na-than trở về nhà.
Trong Thánh Vịnh 51 vua Đavít xin Chúa tha tội cho ông. Ông thưa với Người:
“Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu
xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch
hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã
phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình
Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi
tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho : lúc chào đời con đã
vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích
tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành
hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con
cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. Xin cho con được nghe tiếng reo mừng
hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. Xin
ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm. Lạy Chúa
Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho
con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng
cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm
vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường
lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng
Ngài. Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ, xin tha chết cho
con, con sẽ tung hô Ngài công chính. Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài. Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có
thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa,
tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài
sẽ chẳng khinh chê. Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on, thành
luỹ Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại. Bấy giờ Ngài vui nhận tế phẩm
luật truyền, lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế. Bấy giờ thiên hạ giết bò
tơ dâng trên bàn thờ Chúa.”
Thánh vịnh 51 là lời cầu tha thiết vua Đavít dâng lên trước mặt
Thiên Chúa. Nó diễn tả nhận thức sâu xa về số phận con người tội lỗi
ngay từ lúc còn là bào thai. Nhưng thánh vịnh cũng chúc tụng lòng nhân
từ xót thương của Thiên Chúa. Thánh vịnh được phụng vụ dùng đặc biệt
trong các lễ nghi thống hối và trong mùa Chay, là thời gian Giáo Hội mời
gọi tín hữu hoán cả, trở về với Chúa, bằng nỗ lực thay đổi cung cách
suy tư hành xử, cải tà quy chính, khước tù tội lỗi, ăn ngay ở lành, và
sống bác ái quảng đại trợ giúp những người nghèo nàn túng thiếu nhất.
Linh Tiến Khải – Vatican
Theo https://radioltxc.org/2022/05/21/cac-gio-kinh-phung-vu/