Bên cạnh ý niệm Thiên Chúa, thì ý niệm thiên đàng là một ý niệm
lớn nhất đi vào trong tâm tưởng nhân loại. Nếu thời nay nó bị chối từ và bị
công kích hơn trong quá khứ, thì các người hộ giáo ngày nay cần phải giải thích
và bảo vệ ý niệm này tốt hơn thời xưa và chắc chắn không để nó trôi đi hay phớt
lờ nó.
Thậm chí có một điều khó để bảo vệ hơn là ý niệm thiên đàng là ý
niệm hỏa ngục. Thực vậy, hỏa ngục là một học thuyết Kitô giáo khó bảo vệ
nhất, một gánh nặng nhất để tin và là điều đầu tiên đáng loại bỏ. Sự phê phán
chống lại nó dường như rất mạnh, và những người tin nó dường như không thể chịu
nổi.
Trọng tâm của chương này là giải đáp những công kích của những
người vô tín chống lại thiên đàng và hỏa ngục.
THIÊN ĐÀNG
Chúng tôi liệt kê dưới đây mười bảy vấn nạn về ý niệm thiên đàng.
Ý định của chúng tôi là không cung cấp một thần học về thiên đàng, cũng không
cho thấy một bức tranh thiên đàng hướng đến những khát vọng hay những soi sáng
mang tính cá nhân. Còn rất nhiều điều cần phải nói sau khi trả lời những
câu hỏi này
Vấn nạn 1: Sự đầu thai
là một điều đáng tin.
Người Kitô giáo chống đối lại sự đầu thai vì tám lý do.
1. Nó mâu thuẫn với Kinh Thánh (Dt 9,27)
2. Nó mâu thuẫn với truyền thống chính thống trong tất cả giáo hội
Kitô giáo.
3. Nó ám chỉ rằng Thiên Chúa đã phạm sai lầm trong việc dựng nên
linh hồn chúng ta tồn tại trong thân xác, chúng ta là những linh hồn thực sự
thuần khiết đang ở trong tù ngục của thân xác hay là những thiên thần trong bộ
y phục thân xác.
4. Nó mâu thuẫn với tâm lý và những cảm thức chung, vì quan điểm
về các linh hồn như bị giam cầm trong những thân xác lạ lẫm chối từ sự hơp nhất
tinh thần thể xác cách tự nhiên.
5. Nó đưa đến một quan điểm rất thấp về thể xác như là một ngục
tù, hay một hình phạt.
6. Ý niệm chúng ta được đầu thai để học những bài học mà chúng ta
đã thất bại trong kiếp trước thì trái với cảm thức chung và tâm lý giáo dục căn
bản. Tôi không thể học một điều gì đó nếu không có tính liên tục của trí nhớ.
Tôi có thể học từ lỗi lầm của tôi chỉ khi tôi nhớ chúng. Người ta thường không
nhớ “kiếp” trước của mình.
7. Bằng chứng về sự đầu thai được đưa ra, như là việc nhớ về cuộc
sống trước đây bằng cách thôi miên hay “sự hồi quy cuộc sống quá khứ”, có thể
được giải thích – nếu chúng thật sự xảy ra – như là một sự ngoại cảm từ xa
thuộc tinh thần từ những hữu thể sống khác, từ những linh hồn của người chết
trong luyện ngục hay hỏa ngục, hoặc từ ma quỷ. Khả thể sau cùng làm cho chúng
ta cực kỳ sợ hãi về việc linh hồn chúng ta quy hồi về cuộc sống trước đây.
8. Sự đầu thai tự nó không thể giải thích. Tại sao linh hồn chúng
ta bị giam cầm trong thân xác? Có phải sự đầu thai là những hình phạt tội lỗi
mà chúng ta đã phạm ở kiếp trước? Nhưng tại sao kiếp trước là cần thiết? Vì
cùng một lý do. Nhưng khởi đầu tiến trình giam cầm linh hồn vào trong thân xác
ở nơi đầu tiên phải quay trở lại một chuỗi các cơ thể. Chúng ta phạm tội như
thế nào trong tình trạng của một tinh thần hoàn hảo, nguyên tuyền, thuộc thiên
giới? Hơn nữa, nếu chúng ta phạm tội trên thiên đàng thì rốt cục đó chẳng phải
là chốn vĩnh hằng. Tuy nhiên, đó là tình trạng mà sự đầu thai được đưa ra để
dẫn chúng ta quay trở về sau khi khao khát đầu thai qua đi.
Vấn nạn 2: Không có
những bằng chứng khoa học về thiên đàng.
Trả lời A: Chẳng có nhiều ý
niệm mà mọi người thừa nhận là có căn cứ, thậm chí cả nhà khoa học. Khi họ đóng
cửa phòng thí nghiệm, về nhà và hôn vợ, họ không tin rằng chẳng có gì nơi đó cả
ngoại trừ hóc môn, hệ thần kinh và các phân tử.
Trả lời B: Không có cái gọi
chứng cứ khoa học dành cho khái niệm là không có gì tồn tại ngoại trừ những gì
được khoa học chứng minh. Người chống đối khẳng định rằng bất cứ thứ gì mà
không có bằng chứng khoa học thì không tồn tại (ví dụ: không có chứng cứ khoa
học về thiên đàng, vì thế thiên đàng không có). Thế nhưng không có bằng chứng
khoa học cho cái giả thiết đó; thiên đàng không thể chứng minh bằng phương pháp
khoa học. Thực tế, đó chỉ đơn giản là một giả thiết; đó là một khẳng định võ
đoán của ý chí để thu hẹp mối dây thực tại với mối dây phương pháp khoa học.
Vấn nạn 3: Thiên đàng
rõ ràng là một ý tưởng đáng ước ao. Nếu không có thiên đàng, thì chúng ta phải
tạo ra nó. Nó là một “giấc mơ tất yếu.”
Trả lời A: Thiên đàng trong
Kinh thánh không tương ứng với giấc mơ hay ý tưởng đáng ao ước của chúng ta. Đó
là một tình yêu quên mình, vị tha và là sự thánh thiêng, không phải là phần
thưởng của những ao ước ích kỷ.
Trả lời B: Thậm chí nếu có
một sự tương ứng giữa những ao ước bẩm sinh của chúng ta và ý niệm về thiên
đàng, mà sự tương ứng ấy có thể được giải thích một cách công bằng bởi việc
Thiên Chúa tạo dựng chúng ta vì thiên đàng hơn là tạo ra thiên đàng vì chúng
ta. Găng tay được làm vì bàn tay, hay bàn tay được làm vì găng tay.
Vấn nạn 4: Chính cái
khuôn mẫu hay cấu trúc về ý niệm thiên đàng chỉ là huyền thoại hay truyền
thuyết. Những con đường bằng vàng là phiên bản khác của “vùng đất săn bắn hạnh
phúc” hay cánh đồng nơi các vị thần ở.
Trả lời A: Cần phân biệt
hình ảnh khỏi bản chất. Không tin vào bản chất là bởi vì bạn nhầm lẫn hình ảnh
dành cho sự diễn tả theo nghĩa đen, sự nhầm lẫn đó thì cũng ngớ ngẩn như việc
không tin vào mặt trăng bởi vì bạn nhầm lẫn “con người trên mặt trăng” là một
con người theo nghĩa đen.
Trả lời B: Thực tế là mọi
tôn giáo và văn hoá đều có viễn tượng nào đó về thiên đàng. Đó là bằng chứng
cho tính hiện thực tại nó, chứ không phải ngược lại. Nếu mọi người (hay gần như
mọi người) tin vào một câu chuyện, chỉ có sự ngạo mạn mới kết luận rằng câu
chuyện ấy là sai lầm hơn là đúng đắn.
Vấn nạn 5: Việc tin
vào thiên đàng là phi thực tế..
Trả lời A: Câu trả lời mạnh
mẽ nhất đối với chủ nghĩa thoát ly thực tế là câu hỏi đơn giản của C.S Lewis:
“Ai là người chống lại ‘chủ nghĩa phi thực tế’? Thưa là những tù nhân.” Hãy
nghĩ về điều đó.
Trả lời B: Có là phi
thực tế hay không đối với một đứa bé chưa được sinh ra khi tự hỏi về cuộc sống
sau khi sinh? Có là phi thực tế hay không đối với một người hành hương khi tự
hỏi về định mệnh thánh thiêng của mình? Có là phi thực tế hay không đối với một
thủy thủ bị đắm tàu ở trên chiếc bè khi mơ về đất liền? Có là phi thực tế hay
không đối với hạt giống khi mơ về những bông hoa? Con sâu bướm mơ thành con
bướm? Juliet mơ về Romeo? Thiên đàng thì không phải phi thực tế bởi vì nó là sự
tròn đầy của mọi ước vọng tốt đẹp trần gian.
Trả lời C: Thiên đàng không
phải phi thực tế bởi vì nó có thực. Ý niệm là “phi thực tế” chỉ nếu đó là một
lời nói dối. Gọi ý niệm phi thực tế về thiên đàng thì phải giả định thuyết vô
thần nhưng không có sự rõ ràng hay sự can đảm để nói như thế. Nếu thiên đàng là
thật thì chính người phi thực tế không nghĩ về nó mà là chính người thực tế.
Vấn đề đầu tiên về bất cứ ý niệm nào là liệu nó có phi thực tế hay
là nó có thực. Cái nhãn “phi thực tế” thì tự nó đã là phi thực tế; những người
sử dụng từ ngữ đó thì đang cố tránh trách nhiệm sơ đẳng để chứng minh sự sai
lầm về ý niệm thiên đàng.
Vấn nạn 6:
Thiên đàng là một sự đánh lạc hướng. Dù đúng hay sai thì thiên đàng làm
chúng ta sao nhãng khỏi những nhiệm vụ hiện thời của chúng ta.
Trả lời A: Nếu thiên đàng
là thực và là mục đích tối hậu của chúng ta, thì những nhiệm vụ hiện thời
thường làm chúng ta xao lãng khỏi nhiệm vụ căn bản của chúng ta hơn.
Trả lời B:
Mối bận tâm với những sự trên trời không làm giảm hay hạ thấp mối
bận tâm về những sự dưới thế vì lý do tương tự một người mẹ mang
thai lo lắng cho tương lai của đứa con trong bụng mình không làm giảm,
hạ thấp hay xao lãng khỏi mối bận tâm về giây phút hiện tại của con
mình. Nếu người mẹ tin rằng con mình sẽ chết hay nếu muốn con mình
chết (nghĩa là, phá thai), thì cuộc sống của đứa bé sẽ bị hạ thấp và
giảm giá trị, và bà ta sẽ ngừng chăm sóc cho đứa bé. Nếu chúng ta tin
rằng cuộc sống này kết thúc với cái chết, giống như phá bỏ một thai
nhi, thì chúng ta sẽ còn chăm sóc nó nhiều như là nếu chúng ta tin rằng
chính cái thai đó sẽ sinh vào trong sự bất diệt.
Những con đường buổi đầu dẫn đến California và những mỏ
vàng thì được lát gạch và được chăm chút cách tốt đẹp. Những con đường
dẫn đến thị trấn ma quái đã bị phá hủy. Nếu trái đất là con đường
dẫn đến thiên đàng thì chúng ta sẽ chăm sóc nó. Nếu nó chẳng dẫn đến
đâu nhưng lại dẫn đến những ngôi mộ thì chúng ta sẽ chẳng cần để ý
đến nó.
Trả lời C:
Ngang qua lịch sử, có những người tin cách mạnh mẽ nhất vào thiên
đàng nơi tạo ra sự khác biệt lớn nhất đối với trái đất, gồm cả bản
thân Đức Giêsu. Vì nếu bạn tin vào tổ quốc, bạn sẽ quan tâm tới lãnh
địa của phần đất ấy.
Vấn nạn 7: Thiên
đàng là một sự mua chuộc. Thiên đàng làm cho tôn giáo trở nên ích
kỷ. Bạn ra sức vì phần thưởng thiên đàng, không vì tình yêu nguyên
tuyền mà là vì hám lợi.
Trả lời: Có là hám lợi
hay không đối với Romeo khi muốn cưới Juliet? Đối với một đội bóng khi phải
chơi cật lực để dành lấy chiến thắng? Hay đối với một sinh viên
ngoại ngữ khi muốn học đọc và nói cách lưu loát ngoại ngữ đó? Có một
số phần thưởng không vụ lợi nhưng tự nhiên và đúng đắn. Chúng không
được đính tạm một cách gượng gạo vào trong hoạt động chúng ban thưởng, như một
cấp trật trong một khóa học, mà là chính hoạt động ấy trong một tình trạng hoàn
hảo. Thiên Đàng là như thế. Nó không là phần thưởng được thêm vào bên ngoài cho
tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhưng tình yêu đó tự nó đã hoàn hảo.
Vấn nạn 8: Thiên Đàng
thì quá ích kỷ. Thật kêu ngạo làm sao nếu nghĩ rằng bạn được tiền định mệnh để
kết hôn với Chúa một cách thiêng liêng!
Trả Lời: Thiên Chúa đã nói điều đó chứ không phải chúng ta. Quả
vậy, điều ấy thật kinh ngạc. Thiên Chúa thì diệu kỳ.
Vấn nạn 9: Thiên Đàng sẽ là chán chường. Không
có gì để làm ngoại trừ việc thờ phượng – một nghi thức phụng vụ vô tận.
Trả lời A: Chán nản là một
cảm xúc thất bại và riêng biệt thuộc thế gian. Thậm chí hơn nữa, chán nản mang
tính hiện đại cách đặc biệt; cách chung từ chán nản không tồn tại trong bất kỳ
ngôn ngữ tiền hiện đại nào. Chúng ta sẽ không chán nản trên thiên đàng bởi vì
chúng ta sẽ tốt lành và khôn ngoan. Thậm chí ở đây trên trần gian này, các
thánh không bao giờ chán nản.
Trả lời B: Thiên đàng sẽ
không chán nản bởi vì thiên đàng không là sự mãn nguyện đơn thuần là điều gây
ra chán nản, mà là niềm hoan lạc không có chán nản.
Trả lời C: Thiên đàng không
chán nản bởi vì thiên đàng là tình yêu và công việc hoàn hảo. Thậm chí Freud
biết rằng hai điều mà mỗi người cần để làm cho cuộc sống đáng sống là tình yêu
và công việc. Tình yêu-công việc nào ở trên thiên đàng? Đó là hiểu biết và yêu
mến: Thiên Chúa, tha nhân và chính bản thân. Thậm chí trên thiên đàng sáu điều
này thì vô tận và không chán nản. Chúng là cuộc tổng dợt cho thiên đàng.
Vấn nạn 10: Chúng ta
hạnh phúc như thế nào trên thiên đàng nếu như người thân yêu của chúng ta lại ở
hỏa ngục? Nếu chúng ta ngừng yêu họ, chúng ta sẽ không tốt; nếu chúng ta giữ
tình yêu đối với họ, chúng ta sẽ không hạnh phúc.
Trả lời A: Chúng ta hãy bắt
đầu với dữ kiện mà chúng ta chắc chắn biết. Chúng ta biết rằng sẽ không có nỗi
buồn trên thiên đàng, dù cho chúng ta không thể biết cách mà Thiên Chúa xếp đặt
điều này như thế nào. Thiên Chúa “sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn
sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa.” (Kh 21,4).
Thiên Chúa làm cho không còn đau buồn nữa, dầu cho những người mà
Ngài tạo dựng và yêu thương đang ở hỏa ngục. Thiên Chúa là tình yêu và niềm
hoan lạc vô tận, dù cho ai đó có đi vào hỏa ngục đi chăng nữa. Điều này có
thể được thực hiện, vì nó được thực hiện: Thiên Chúa thực hiện điều đó. Nếu
Thiên Chúa thực hiện điều đó thì Ngài sẽ dạy chúng ta cách để làm điều đó.
Trả lời B: Nếu con người
sống trong hỏa ngục, và thiên đàng cũng tồn tại song song với hỏa ngục trong
thời gian như trái đất và sao hỏa là những thế giới song song, thì có vẻ như
không có câu trả lời cho vấn nạn này. Tuy nhiên, hỏa ngục là nơi của sự chết
đời đời, chứ không phải là sự sống vĩnh hằng; và những gì đi vào hỏa ngục là
một con người chứ không phải là “cái xác” (xem C. S. Lewis, Vấn đề đau khổ,
chương 9). Thiên đàng va hỏa ngục không phải là hai thế giới tương đương trong
thời gian. Vì thế, tất cả giả thiết minh nhiên về vấn nạn này là sai.
Trả lời C: Nếu những người
mà bạn yêu và diễn tả sâu sắc đến nỗi bạn không thể biết làm thế nào mà bạn có
thể hạnh phục mãi mà không có họ, thì một trong những công trình mà Chúa có thể
đặt bạn trên địa cầu này là để bạn làm mọi thứ vì ơn cứu độ của họ cũng như cho
chính bạn. Có lẽ mối bận tâm của bạn là một manh mối cho câu trả lời này: Có lẽ
Thiên Chúa đã đặt để gánh nặng ấy vào tim bạn để bạn cùng Ngài nêu nó lên để
giải quyết nó.
Vấn nạn 11: Thiên
Đàng là vĩnh hằng. Nhưng dường như sự vĩnh hằng thì không thuộc con người vì
không có thời gian thì cũng chẳng có sự thăng tiến, không thay đổi, chẳng có
công trình gì. Sự thờ phượng cách thụ động và chẳng một chút thay đôi gì có vẻ
chỉ hợp với các thiên thần chứ không phải cho chúng ta.
Trả lời: Ai dám nói nơi
thiên đàng không có thời gian, công việc và sự thay đổi? Có lẽ sự vĩnh hằng bao
hàm cả thời gian hơn là loại trừ nó. Có lẽ thay vì chỉ một khoảng nhỏ của hữu
thể thời gian hiện diện (những gì mà chúng ta gọi là “hiện tại”), tất cả
thời gian cũng có thể hiện hữu trong thiên đàng. Còn về công việc, cũng có công
việc trong thiên đàng, và công việc đó là yêu thương. Yêu thương là một công
việc. Trước khi sa ngã, công việc cũng là tình yêu. Chỉ sau khi sa ngã, công
việc ấy mới trở nên nặng (Sáng thế 3,17-19). Thiên đàng sẽ phục hồi và trổi
vượt hơn mọi điều tốt đẹp vốn có trong vườn địa đàng (Ê-đen), gồm cả những sự
tốt lành trong công việc, trong sự thay đổi và thời gian.
Vấn nạn 12: Trong thiên
đàng, chúng ta có tự do để phạm tội hay không? Nếu không, chúng ta là những
người máy không có tự do, những con người không có ý chí tự do. Nếu có, thì
thiên đàng cũng nguy hiểm như trái đất vậy. Và nếu có ai ở đó chọn lựa để phạm
tội thì vườn Ê đen và sự sa ngã lại tái diễn thêm lần nữa.
Trả lời: “Tự do đối với
tội” thì cũng giống “một căn bênh lành mạnh”. Nghĩa là “sự tự do khỏi tình
trạng nô lệ”.
Ý chí tự do, hay chọn lựa tự do, là phương tiện để tới tự do cao
hơn. Sự tự do thấp hơn là phương tiện để được tự do khỏi những ràng buộc. Sự tự
do cao hơn là cùng đích, để được tự do khỏi sự dữ.
Trong thiên đàng, sẽ không ai phạm tội vì chẳng ai muốn như thế. Ở
đó, hết thảy chúng ta sẽ chiêm ngưỡng vẻ đẹp, niềm hoan lạc và hấp dẫn của
Thiên Chúa và sự tốt lành; chúng ta cũng sẽ thấy sự xấu xa, buồn phiền và ngớ
ngẩn của tội rõ đến nỗi chúng ta không mảy may ao ước phạm tội.
Vấn nạn 13: Nếu tất cả
chúng ta là những vị thánh hoàn thiện trong thiên đàng, thì đâu sẽ là yếu tố cá
vị? Hàng tỉ những bản sao của Thiên Chúa dường như là vô tri.
Trả lời A: Những bản sao
của nhau là vô tri; còn bản sao của Thiên Chúa là sống động vô hạn. Thiên Chúa
trông như một viên kim cương có vô vàn khía cạnh. Mỗi một vị thánh phản ánh một
khía cạnh khác nhau.
Trả lời B: Thậm chí hiện
nay, các vị thánh là những cá nhân chân thật nhất. “Buồn thảm làm sao những kẻ
bạo chúa và những kẻ tội lỗi; Vinh quanh biết chừng nào các vị thánh!” (C.
S. Lewis, Duy chỉ Kitô giáo).
Hãy để Thiên Chúa cai quản linh hồn và cuộc sống của bạn, tính
thánh thiêng thì cũng như muối vậy: nó mang lại những hương vị độc đáo
cho mỗi loại thực phẩm khác nhau mà nó ướp. Nó làm cho cá nên cá hơn, thịt nên
thịt hơn và trứng nên trứng hơn. Nó làm cho thánh Âu Tinh mang tính Âu Tinh
hơn, thánh Tôma mang tính Tôma hơn, thánh Têrêxa mang tính Têrêxa hơn và Maria
mang tính Maria hơn.
Vấn nạn 14: Nếu ánh sáng và
và chân lý của Thiên Chúa ngập tràn thiên đàng, thì sẽ chẳng có gì là bí mật
riêng tư cả. Điều này thật là quá quắt.
Trả lời: Sự riêng tư –
như quần áo, những ổ khóa và những nhân viên cảnh sát – lúc này đang cần đến
chỉ vì tội mà thôi. Chúng ta ẩn mình khỏi người khác vì (a) chúng ta xấu hổ và
(b) chúng ta sợ người khác hiểu nhầm hay loại trừ chúng ta. Trên thiên đàng,
chẳng có sự xấu hổ (vì tội không còn nữa) và chẳng có sự hiểu lầm hay loại trừ
nào bởi Thiên Chúa và các thánh. Trên thiên đàng, chúng ta sẽ vui hưởng sự thân
mật mà chúng ta vốn sợ (tuy nhiên lại rất khao khát).
Vấn nạn 15: Liệu trên thiên
đàng có tình dục hay không? Nếu không, hầu hết con người hôm nay không muốn vào
nơi ấy. Nếu có tình dục, thì thiên đàng chẳng khác nào trái đất, nó mang tính
trần tục quá.
Trả lời A: Nói rằng nhiều
người không muốn vào Thiên đàng thì chẳng có hại gì đối với thiên đàng, có
chăng là có hại cho kẻ không muốn vào mà thôi.
Trả lời B: Chắc hẳn có giới
tính trong thiên đàng. Giới tính, hay căn tính tính dục, là một phần của
nhân tính được tạo nên vốn mang tính chất thần thiêng của chúng ta, và nó không
bị xóa bỏ đi nhưng được chuyển đổi. Chúng ta sẽ “như các thiên thần” (Mt 22:
30) không bởi do bị thiến hoạn nhưng do không lập gia đình.
Giới tính trước tiên là cái chúng ta là, không phải là cái
chúng ta làm. Nếu vấn đề là không biết chúng ta có thể “thực hiện
điều ấy” (nghĩa là giao hợp) trong thiên đàng hay không, câu trả lời có lẽ cũng
giống như câu trả lời cho một cậu bé sáu tuổi khi cậu hỏi không biết cậu còn có
thể chơi với những mô hình máy bay trong khi làm tình khi cậu lớn hay không.
Vì chúng ta sẽ có những thân thể thực, điều ấy sẽ là có thể,
giống như ta có thể ăn vậy; Chúa Kitô đã ăn trong thân xác phục sinh. Nhưng có
lẽ chúng ta không bao giờ nghĩ vậy – không vì điều ấy có vẻ là đáng tủi hổ, ngớ
ngẩn, hay thô tục nhưng vì trong thiên đàng chúng ta sẽ hưởng nếm niềm niềm
hoan lạc bất tận. Có lẽ niềm hoan lạc này sẽ bao gồm sự liên kết hoàn toàn nào
đó với các linh hồn khác mà sự tương giao thể lý giờ đây chỉ là một sự
ngượng ngùng và là một sự tiên báo đầy nhầm lẫn. Không phải những người
yêu nhau tìm kiếm một sự thân mật và nên một hoàn toàn, và họ chỉ luôn đạt đến
một sự nên một tạm thời và chỉ là phần nào thôi sao?
Vấn nạn 16: Yêu mến thiên
đàng là trở thành kẻ phản bội đối với trái đất, là bỏ nó lại đàng sau như một
con chuột chạy trốn khỏi một con tàu đang chìm. Điều đó thật bất trung.
Trả lời: Nếu Kinh Thánh
không sai, trái đất không là nhà của chúng ta, thiên đàng mới là nhà của chúng
ta. Bất trung với thiên đàng mới sai chứ bất trung với trái đất thì không có gì
là sai cả.
Vấn nạn 17: Thiên đàng
nghe có vẻ xa lạ, xa xôi, là một nơi khác, đầy sự đe dọa, “không thích hợp cho
con người cư ngụ.” Giống như thử một bộ quần áo không phù hợp và nói: “Cái này
không dành cho tôi.”
Trả lời: Một điều bạn sẽ
cảm thấy chắc chắn trong thiên đàng là cảm giác đó là nhà của bạn, đấy là điều
được thiết kế và làm ra cho bạn. Thiên Chúa là một thợ may tài ba; Ngài may
khít khao những bộ áo quần nước trời cho mỗi một khách hàng của ngài.
HỎA NGỤC
Thiên đàng thì quan trọng hơn nhiều so với hỏa ngục. Chúng ta
biết nhiều về nó, và nó quy hướng tâm trí của chúng ta về đó cách mạnh mẽ.
Nhưng trong trận chiến, người chiến binh phải ưu tiên bảo vệ phần lãnh thổ bị
tấn công dữ dội nhất hoặc phần lãnh thổ được xem là yếu nhất, và lý thuyết này
ngày nay vẫn hữu dụng. Mỗi học thuyết đều quan trọng. Lấy một hòn đá khỏi đống
đá và bỏ mọi thứ khác không thể đụng chạm được thì cũng giống như loại một cơ
phận quan trọng khỏi một thân thể, tất cả cơ phận khác đều bị ảnh hưởng và thậm
chí là bị hủy diệt.
1. Tin rằng chẳng có giả định hỏa ngục nào cả mà Kinh Thánh và
Giáo Hội đều nói dối, vì rõ ràng cả hai đều dạy về thực tại hỏa ngục.
2. Nếu Kinh Thánh và Giáo Hội không nói dối về những gì mà Chúa
Giêsu đã nói về hỏa ngục, thì giả định rằng Chúa Giêsu là kẻ nói dối. Vì Ngài
khẳng quyết về hỏa ngục hơn bất cứ ai khác trong Kinh Thánh.
Trái lại, một người Kitô hữu mà không tin vào hỏa ngục lại là một
điều nghịch lý, vì một Kitô hữu là người tin vào Chúa Kitô và Chúa Kitô là
người tin vào hỏa ngục. Cách duy nhất để tin vào Chúa Kitô mà không tin vào hỏa
ngục là tái cấu trúc lại Chúa Kitô theo những khao khát riêng của bạn. (Ngài
muốn tái cấu trúc bạn theo ý riêng của ngài!)
Nếu không có hỏa ngục, Chúa Kitô không chỉ là một thầy dạy bịp bợm
nhưng còn là một kẻ khốn nạn, vì Ngài dọa nạt chúng ta một cách không cần
thiết, sai lạc và đầy nguy hiểm.
Thật tế là, con người tốt lành nhất, hiền lành nhất, đầy yêu
thương và lòng trắc ẩn đã từng mở miệng cảnh báo chúng ta với sự nghiêm túc,
mạnh mẽ, chắc chắn nhất về hỏa ngục. Đó là luận đề không thể tranh cãi được về
hỏa ngục.
3. Nếu chúng ta bỏ qua hỏa ngục vì nó không thể chịu được đối với
chúng ta, điều ấy giả định một nguyên tắc là chúng ta có thể thay đổi bất cứ
học thuyết nào mà chúng ta thấy là khó có thể chịu được hay khó có thể chấp
nhận được; nói cách khác, học thuyết ấy là khả dĩ thay đổi. Kitô giáo do thế sẽ
trở nên một thứ ý thức hệ của con người, chứ không phải là một sự mặc khải từ
Thiên Chúa.
4. Nếu không có hỏa ngục, những chọn lựa trong cuộc sống sẽ không
đưa đến một sự khác biệt vĩnh hằng nào. Độ cao của một ngọn núi và độ sâu của
một thung lũng, tầm quan trọng của thắng và thua trong một trận chiến hay một
trò chơi – hai yếu tố này trở thành thước đo cho nhau. C. S. Lewis nói ông chưa
bao giờ gặp một người có niềm tin sống động vào thiên đàng mà lại không
có một niềm tin sống động vào hỏa ngục. “Nếu một cuộc chơi được tổ chức cách
nghiêm túc, thì thua trong cuộc chơi là một điều khả dĩ”. (Vấn đề đau khổ).
5. Nếu không có hỏa ngục, thì sự cứu độ là phổ quát và tự động.
Nếu sự cứu độ là phổ quát và tự động, thì chung cục sẽ chẳng có ý chí tự do. Ý
chí tự do và hỏa ngục cùng song hành, nếu bàn qua ý niệm về ý chí tự do, bạn sẽ
thấy ẩn bên dưới nó là khả thể về hỏa ngục.
6. Nếu không có hỏa ngục để được cứu khỏi đó, thì Chúa Giêsu không
phải là Đấng Cứu Độ của chúng ta mà chỉ là một vị thầy, một ngôn sứ, một vị
guru hay mẫu mực của chúng ta mà thôi.
7. Nếu không có hỏa ngục, một sự dửng dưng tôn giáo sẽ đi kèm theo
đó. Nếu đức tin vào Chúa Kitô như là một Đấng Cứu Độ là không cần thiết, thì
chúng ta cũng nên nhớ đến tất cả những nhà truyền giáo và tạ lỗi với tất
cả những vị tử đạo. Nếu không có một thứ như lửa bộ phận cứu hỏa sẽ là một
điều vô ích và lãng phí.
9. Nếu không có lý do gì để tin vào học thuyết đáng ghét về hỏa
ngục, thì cũng chẳng có lý do gì để tin vào một học thuyết đáng yêu nhất trong
Kitô giáo: học thuyết về Thiên Chúa là tình yêu. Học thuyết được yêu mến này là
lý do mà các nhà phê bình hay trưng ra nhất cho việc bất tin vào học thuyết
đáng ghét kia; tuy nhiên, cả hai học thuyết đều cùng dựa trên một nền tảng.
Tại sao chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là tình yêu? Không phải
bởi lý do triết lý. Đâu là điểm luận lý có thể chứng minh rằng
Đấng toàn hảo, độc lập, không cần bất cứ nhu cầu nào, Đấng đó lại yêu
thương những thụ tạo của mình quá nhiều đến nỗi mà đã trở thành một trong số
những thụ tạo đó để chịu đau khổ và chết cho họ?
Làm thế nào mà chúng ta biết được Thiên Chúa là tình yêu? Không
bởi quan sát tự nhiên, cũng chẳng bởi suy tư triết học. “Tự nhiên đẫm
máu trong răng và móng vuốt” không tỏ lộ tình yêu.
Không bởi khoa học. Chẳng có thực nghiệm khoa học nào đã
từng minh chứng tình yêu Thiên Chúa, hoặc đo lường, cân đong hay thậm
chí là quan sát nó.
Không bởi lương tâm, vì lương tâm thì vô cảm – “cứng như
những chiếc đinh.” Lương tâm cho ta biết điều gì đúng, sai và cũng cho
chúng ta biết rằng chúng ta hoàn toàn bị bó buộc để làm điều đúng
và tránh điều sai, nhưng nó không nói cho chúng ta biết chúng ta được
tha thứ.
Cũng chẳng bởi lịch sử. Lịch sử không xảy ra bởi tình yêu phổ quát
nhưng là bởi sự ích kỷ phổ quát. Có một và chỉ một lý do để mọi người nghĩ rằng
Thiên Chúa là tình yêu, đầy lòng thương xót và tha thứ – và đó là bằng chứng
thuyết phục duy nhất cho tính đúng đắn của niềm tin này. Lý do này là đặc nét
của Thiên Chúa được mặc khải trong Kinh Thánh, đạt đết đỉnh điểm nơi Chúa Giêsu
Kitô. Cũng chính niềm tin vào Thiên Chúa là tình yêu mà chúng ta tin rằng có
hỏa ngục. Hoặc chúng ta chấp nhận cả thiên đàng và hỏa ngục, hoặc chúng ta loại
bỏ cả hai vì chúng đều dựa trên cùng một nền tảng.
10. Nhiều người tin rằng vì có hỏa ngục nên Thiên Chúa phải là
Thiên Chúa của sự giận giữ, báo oán và hận thù. Nhưng không phải vậy. Có lẽ
chính tình yêu của Thiên Chúa đã cấu nên sự thống khổ của tội nhân trong hỏa
ngục. Tình yêu ấy đe dọa và dày vò tính ích kỷ mà những tội nhân bị đọa đày bám
víu và khăng khăng giữ lấy. Một đứa trẻ trong cơn giận, nín bặt và căm ghét bố
mẹ, có thể cảm thấy sự ôm ấp và những nụ hôn của bố mẹ chúng là sự tra tấn. Thể
theo cùng một nguyên tắc tâm lý, cái hay, cái đẹp vượt mức của một bản nhạc
kịch có thể là một sự hành hạ đối với những ai ganh tỵ một cách mù quáng đối
với người soạn nên nó. Vì vậy, lửa hỏa ngục có thể được tạo nên bởi chính
tình yêu của Thiên Chúa, hoặc hơn thế, bởi mối hận bị đọa đày của tình yêu ấy.
“Sự giận giữ của Thiên Chúa” là một cách diễn đạt có tính chất
kinh thánh. Nhưng (a) có lẽ nó là một thứ ẩn dụ, một hình ảnh mang tính con
người, giống như “cánh tay hùng mạnh của Thiên Chúa” hoặc Thiên Chúa
thay đổi ý định của Ngài. Điều ấy không hiểu theo mặt chữ. Và (b) nếu nó không
là một hình ảnh ẩn dụ nhưng là một sự giân giữ đúng nghĩa (hận), nó là sự phóng
chiếu chính mối hận của chúng ta lên Thiên Chúa hơn là mối hận trong chính
Thiên Chúa. Và (c) nếu đó là một sự thật khách quan nơi Thiên Chúa hơn là một
sự phóng chiếu mang tính chủ quan từ chúng ta, thì nó ám chỉ đến sự thánh thiên
và công bình của Thiên Chúa chứ không là một sự oán hận ngấm ngầm; đấy chính là
sự giận dữ của Thiên Chúa trước tội lỗi chứ không phải đối với tội nhân. Thiên
Chúa thực thi những gì Ngài đã rao giảng cho chúng ta: yêu mến tội nhân, ghét
bỏ tội lỗi. Như những nhà phẫu thuật yêu mến bệnh nhân của họ, họ phải ghét
những căn bệnh ung thư nơi bệnh nhân. Những kẻ bị đọa đày là những kẻ không
chịu xa lánh tội lỗi bằng việc ăn năn thống hối. Mọi tội lỗi ắt gặp một kết cục
tất yếu: bị loại trừ khỏi thiên đàng. Chỉ khi bám chặt vào tội lỗi, chúng ta
mới bám chặt vào định mệnh ấy.
Thiên Chúa đầy lòng thương xót và sự tha thứ, nhưng chúng ta phải
làm rõ về ý nghĩa của điều này. Tha thứ đòi hỏi sự tự do, nó phải được trao ban
và đón nhận cách tự do giống như bất cứ món quà nào. Nếu chúng ta không ăn năn
và cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận được món quà ấy –
không vì Thiên Chúa giữ nó lại nhưng vì chính chúng ta tự giữ lại mình lại.
11. Một số người đã dạy hoặc cho rằng những người bị đọa đày là
những người bị ép vào hỏa ngục, họ bị quẳng vào hỏa ngục ngược với ý mình. Điều
này xem ra ngược với lý do căn bản cho sự hiện hữu của hỏa ngục: chọn lựa tự do
của chúng ta và Thiên Chúa tôn trọng tự do ấy. Những kẻ bị đọa đày trong hỏa
ngục không hưởng nếm hỏa ngục nhưng muốn điều ấy bởi nuông chiều
sự ích kỷ thay vì tình yêu, cái tôi thay vì Thiên Chúa, tội lỗi thay cho sự ăn
năn. Chẳng thể có thiên đàng nếu không có tình yêu tự hiến. Điều mà những kẻ bị
đọa đày ao ước – hạnh phúc cho chính bản tính ích kỉ của họ – là điều bất khả
thi thậm chí cả đối với Thiên Chúa. Điều ấy không hiện hữu và không thể hiện
hữu.
12. Nếu hỏa ngục được chọn lựa cách hoàn toàn tự do, thì vấn đề
không còn là sự giao hòa giữa hỏa ngục và tình yêu Thiên Chúa nhưng là giao hòa
giữa hỏa ngục với tình trạng lành mạnh của con người. Trừ phi bị mất trí, có ai
lại thích hỏa ngục hơn thiên đàng một cách tự do hay không? Câu trả lời là tất
cả chúng ta đã chọn lựa như thế lúc này hay lúc khác. Mỗi một tội đã phản ánh
sự nghiêng chiều này.
13. Có lẽ những lời phóng đại nhất về hỏa ngục được tìm thấy trong
học thuyết của Calvin (không phải ai thuộc trường phải Calvin cũng tin) về một
sự tiền định kép. Theo học thuyết này, Thiên Chúa quyết định và tạo ra một số
linh hồn dành cho hỏa ngục trước khi chúng được sinh ra; Thiên Chúa muốn
họ bị đọa đày. Điều này trái ngược với cả Kinh Thánh (Mt 18,14) lẫn chuẩn mực
luân lý; làm sao người ta có thể yêu mến một Thiên Chúa ác nghiệt như thế?
Thật sự có một sự tiền định cho thiên đàng, giống như loại bản đồ
chỉ đường giúp hướng đến con đương đúng cho một kỳ nghỉ hạnh phúc. Từ được
tiền định và sự tiền định có sử dụng trong Kinh Thánh (Rm 8,29-30;
Ep 1,5.11). Tiền ở đây không thể được giải thích theo nghĩa đen vì Thiên
Chúa không ở trong thời gian. Nhưng vấn đề quan trọng là Thiên Chúa ở đây là ai
(loại Thiên Chúa nào). Chúng ta không được nghĩ rằng vì có hỏa ngục nên Thiên
Chúa giống như một người cầm quyền ở một trại tập trung thần thiêng và Ngài,
một cách thất thường, đã đẩy một số tù nhân vào phòng hơi ngạt và lại tha cho
một số khác. Người Kitô hữu tin chính Thiên Chúa đã nói với họ là nên nghĩ về
Ngài như thế nào, và họ luôn giữ trong trí những hình ảnh yêu thương về Ngài:
người cha, người chủ chăn tốt lành, và như gà mẹ ủ ấp con thơ (Mt 23, 37)
Cách sử dụng đúng đắn và cách lạm dụng học
thuyết về hỏa ngục
Những chống đối gay gắt nhất đối với học thuyết hỏa ngục thực sự
là những chống đối hướng đến các bậc thầy tôn giáo – những người đã lạm dụng
học thuyết này (Điều này đặc biệt thường thấy ở nơi những người Mỹ theo chủ
thuyết nền tảng và những người Công Giáo Ai-len). Sự chống đối hệ ở chỗ: hỏa
ngục có lẽ được phát minh ra vì sự thù ghét, sợ hãi, khao khát kiểm soát và
vượt trội trên người khác, vì đó là hoa trái mà học thuyết này mang lại.
Tuy nhiên, sự chống đối tương tự cũng có thể được sử dụng để phản bác
lại học thuyết thiên đàng: học thuyết thiên đàng cũng bị lạm dụng, đưa đến việc
người ta thiếu lưu tâm thích đáng đến thế giới này và lung lạc người ta giống
như củ cà rốt trên một cây gậy. Thật sự, bất cứ ý tưởng nào, dù đúng hay
sai, cũng có thể bị sử dụng sai hoặc bị lạm dụng. Điều này chẳng nói gì cho
chúng ta về sự đúng đắn hay sai lầm của nó.
Tại sao chúng ta phải tin và dạy về hỏa ngục? Trước tiên, lý
do duy nhất đúng cho việc tin hay dạy bất cứ điều gì là: vì nó là sự thật, vì
nó hiện diện. Nói cách khác, vì sự thành thật. Thứ đến, vì yêu mến, vì thương
cảm, vì sợ rằng bất cứ một linh hồn đáng quý và được yêu mến nào đó sẽ phải kết
thúc trong hỏa ngục vì không tin những dấu chỉ cảnh báo, như những đứa trẻ bị
chìm vì tưởng mặt băng đủ dầy và những dấu hiệu cảnh bào đã bị lờ đi. Khi chiến
tranh xảy ra, điều tối thiểu nhất mà chúng ta có thể làm là kêu gào
“bình an, bình an khi chẳng có bình an” (Gr 8,11).
Những ai rao giảng sự thật này sẽ bị ghét bỏ, sợ hãi, gièm pha và
chế nhạo như là những kẻ ngớ ngẩn, thống ái và là những kẻ lôi kéo. Cũng vậy,
người Kitô hữu ngày nay cũng sợ hãi việc chia sẻ sự thánh thiện đặc thù của
Thiên Chúa hơn là chia sẻ về hỏa ngục. (Bạn không đóng đinh một người vào thập
giá vì người ấy nói với bạn những điều mà bạn thích nghe!) Bị gọi bằng
một cái tên xấu xa là một giá nhỏ phải trả cho đặc ân đóng góp một đoạn trong
sợi dây thừng dùng để cứu vớt một con người bé nhỏ nhưng đáng quý mà Chúa Kitô
đã chết cho họ.
Nguyên tác: Pocket Handbook of Christian Apologetics
Tác giả: Peter Kreeft, Ronald K. Tacelli
Còn tiếp