Tại Sao Lại Gọi Là "Dòng Ba"?
Tại Việt Nam, có nhiều hội viên Dòng Ba
Đaminh, Dòng Ba Phanxicô, Dòng Ba Carmêlô. Tại sao gọi là Dòng Ba?
Từ “Dòng Ba” giả thiết “Dòng Nhì” và “Dòng Nhất”. Cho đến thời
gian gần đây, người ta cho rằng từ này xuất hiện thời Trung cổ, cách riêng với
Thánh Phanxicô Assisi. Ngày nay, các sử gia cho rằng nó đã được sử dụng ít là
ba thế kỷ trước Thánh Phanxicô. Thiết tưởng nên lưu ý về danh từ Ordo trong
tiếng La-tinh (tương đương với Ordre tiếng Pháp, Order tiếng Anh). Ordo tự nó
không phải là một Dòng Tu, nhưng chỉ có nghĩa là một đoàn ngũ, chẳng hạn như
ngày nay bên Pháp, từ Ordre vẫn còn dùng cho đoàn ngũ các y sĩ, luật sư, ký
giả. Trong Giáo hội thời cổ, chúng ta thấy bên cạnh đoàn ngũ các giám mục, linh
mục, trợ tá (ordo episcoporum, presbyterorum, diaconorum), còn có đoàn ngũ các
trinh nữ (ordo virginum), đoàn ngũ các góa phụ (ordo viduarum). Sang thời Trung
cổ, từ thế kỷ X, người ta thấy vài tác phẩm nói đến ba hàng ngũ (đẳng trật)
trong Giáo hội, đó là: hàng giáo sĩ, hàng đan sĩ, và hàng giáo dân. Các giáo
dân được xếp vào hàng ngũ thứ ba, tertius ordo, sau các giáo sĩ và các tu sĩ.
Với Thánh Phanxicô Assisi, người ta sử dụng một lối phân hạng khác: dòng nhất
là các nam tu sĩ, dòng nhì là các nữ tu Clara, Dòng Ba là các giáo dân sống
ngoài đời. Từ đó, Dòng Ba được hiểu là các giáo dân sống ngoài đời, nhưng muốn
nên trọn lành qua việc khấn hứa giữ một bản tu luật.
Như vậy là Thánh Phanxicô là người đầu tiên
lập ra Dòng Ba phải không?
Trước đây (nghĩa là cho đến giữa thế kỷ XX), câu trả lời là: đúng
thế! Nhưng kể từ thập niên 60 của thế kỷ vừa rồi, những cuộc nghiên cứu lịch sử
Dòng Tu thời Trung cổ đã lật ngược câu trả lời. Vì thế ngày nay, các sách lịch
sử về các Dòng Ba phải được viết lại. Thực ra, ngay từ thế kỷ VIII, đã có nhiều
giáo dân muốn chia sẻ nếp sống tu trì của các đan sĩ Biển đức dưới nhiều dạng
thức (tựa như các bõ ngãi hay các cư sĩ ở Việt Nam). Họ xin đến trọ tại các đan
viện, tình nguyện làm công không lấy lương, và bù lại họ muốn được tham gia vào
sinh hoạt phụng vụ của nhà dòng. Đôi khi họ cũng mặc áo dòng như các đan sĩ,
nhưng họ không tuyên khấn. Đó là hình thức oblati, donati, conversi. Nhưng sang
đến thế kỷ XII-XIII, chúng ta lại chứng kiến một hiện tượng khác, đó là: nhiều
phong trào gíao dân nổi lên, yêu cầu cải cách Giáo hội, bằng việc trở về với
nếp sống khó nghèo của Phúc âm.
Tuy rằng một số phong trào đó đã ly khai khỏi Giáo hội, nhưng đa
số không dừng lại ở chỗ kêu gào cải cách bằng miệng nhưng còn thực hành lý
tưởng bằng đời sống bản thân. Họ mang danh là đoàn ngũ các hối nhân (Ordo
penitentium). Đến khi Dòng Thánh Đaminh và Dòng Thánh Phanxicô xuất hiện thì họ
đến nhờ các tu sĩ hướng dẫn. Dĩ nhiên là họ cũng chia sẻ lý tưởng Phúc âm mà
hai thánh tổ phụ đề ra, và thậm chí còn xin mặc tu phục của hai dòng đó. Từ đó,
hàng ngũ hối nhân (Ordo penitentium) chia thành hai ngành, ngành xám (màu áo
Dòng Thánh Phanxicô) và ngành đen (màu áo choàng của Dòng Thánh Đaminh). Lần
lượt các bản luật cũng được soạn ra: luật ngành xám được Toà thánh châu phê từ
năm 1289; còn luật ngành đen thì được cha Munio de Zamora soạn từ năm 1285,
nhưng mãi tới năm 1405 mới được Toà thánh châu phê. Lần lượt Toà thánh cũng
châu phê bản luật của các Dòng khác soạn cho các giáo dân muốn chia sẻ tinh
thần của mình, chẳng hạn như: dòng Âutinh (1399 cho nữ giới và 1470 cho nam
giới), Dòng Tôi tớ Đức Mẹ (1424), dòng Carmêlô (năm 1476), vv. Nên biết là Dòng
Thánh Phanxicô đã sớm gọi hàng ngũ hối nhân của mình là “Dòng Ba Phanxicô” (như
nhận thấy qua một văn kiện năm 1292), chứ các dòng khác thì mãi mấy thế kỷ sau
mới du nhập từ ngữ Dòng Ba.
Các hội viên Dòng Ba có mặc áo dòng như các tu
sĩ không?
Như vừa nói trên đây, từ thế kỷ XIII, các hối nhân đã phân thành
hai nhánh - xám và đen - dựa theo màu áo choàng. Nói chung, vào lúc đầu các hội
viên Dòng Ba cũng xin được mặc áo dòng như các tu sĩ. Nhưng dần dần, vì sự tiến
triển y phục bên châu Âu cũng như vì công tác lao động, cho nên các hội viên
Dòng Ba không mặc toàn bộ áo dòng như các tu sĩ (trừ khi tham dự các buổi rước
kiệu và lúc tẩm liệm trong quan tài), nhưng chỉ mặc một áo cộc, làm biểu hiệu.
Các hội viên Dòng Ba có phải tuân giữ những
nghĩa vụ nào không?
Dĩ nhiên các tín hữu xin gia nhập Dòng Ba không phải để lãnh áo
dòng làm kiểng. Như đã nói trên đây, nguồn gốc của các Dòng Ba là phong trào
các hối nhân: họ chủ trương nếp sống khắc khổ, trở về với những yêu sách của
Tin mừng. Trên thực tế, đã có nhiều sự thay đổi về kỷ luật các hội viên Dòng Ba
từ thế kỷ XIII cho đến nay. Vào lúc đầu, các hội viên cũng tuyên khấn tuân giữ
vài nghĩa vụ mà bản Kỷ luật đặt ra, chẳng hạn như việc cầu nguyện (nguyện kinh
nhật khóa), thực hành khổ chế (trong đó có việc kiêng thịt suốt đời, khước từ
tham dự các buổi lễ hội giải trí dân gian), và đôi khi lời hứa giữ khiết tịnh
(ai chưa lập gia đình thì phải giữ độc thân, còn người đã có gia đình thì không
được tái hôn).
Như vậy, các hội viên cũng phải tuyên khấn như
các tu sĩ hay sao?
Bản luật của Dòng Ba Đaminh soạn năm 1285 đã dự trù một thời kỳ
tập luyện là 1 năm, và sau đó hội viên tuyên khấn. Tuy nhiên, bản chất pháp lý
của lời khấn Dòng Ba không được coi như tương đương với lời khấn của các tu sĩ.
Điều này càng rõ rệt hơn khi mà trong số các hội viên Dòng Ba, một vài người đã
họp nhau thành cộng đoàn, tuân giữ một bản luật khác với bản luật dành cho các
giáo dân. Người ta gọi họ là “Dòng Ba tu trì” (tertiarii regulares), đối lại
với “Dòng Ba đời” (tertiarii seculares). Các hội viên Dòng Ba tu trì - đa số là
nữ giới - sống thành cộng đoàn, giữ ba lời khấn dòng; họ chỉ khác với các đan
nữ dòng nhì ở chỗ là họ không ở trong nội vi, nhưng tham gia các công tác tông
đồ và bác ái. Đó là nguồn gốc của các dòng nữ tu hoạt động tông đồ vào thời
nay.
Từ khi các cộng đoàn Dòng Ba tu trì lớn mạnh, cách riêng từ thế kỷ
XV, thì vai trò của các hội viên Dòng Ba “đời” bị giảm. Nhiệt tình của phong
trào “hối nhân” giảm sút. Vì thế, các nghĩa vụ của họ cũng được giảm nhẹ. Tính
cách pháp lý của lời khấn hứa của họ không đáng kể. Mãi đến cuối thế kỷ XIX,
các Dòng Ba đời mới được phục hồi, nhưng thường được đồng hóa với các hội đoàn
đạo đức cầu nguyện, nhưng không tác dụng vào đời sống Giáo hội cách mạnh mẽ như
hồi thế kỷ XIII-XIV nữa. Dĩ nhiên, đó là nói các đường hướng chung, chứ khi đi
vào lịch sử của mỗi Dòng Ba thì có nhiều đặc trưng khác nữa.
Hiện nay có bao nhiêu thứ Dòng Ba?
Sự phân biệt giữa Dòng Ba “tu trì” với Dòng Ba “đời” coi như không
còn nữa. Các Dòng Ba tu trì trở thành các Dòng Tu như bao nhiêu Dòng Tu khác,
chẳng hạn như các Dòng nữ tu Đaminh, Phanxicô, Cát minh, vv. Còn các Dòng Ba
“đời” thì dần dần cũng đổi tên: thay vì gọi Dòng Ba Đaminh đời, thì người ta
gọi là “huynh đoàn giáo dân Đaminh”; một cách tương tự như vậy, “Dòng Ba
Phanxicô đời” được đổi thành “Dòng Thánh Phanxicô tại thế” (bỏ tính từ “thứ ba”
để khỏi gây mặc cảm).
Dưới một khía cạnh khác, có thể nói được là có nhiều thứ Dòng Ba
dựa theo các linh đạo khác nhau. Về điểm này ta thấy có sự khác biệt khá lớn
giữa bộ giáo luật 1917 và bộ giáo luật 1983. Trong bộ giáo luật 1917, chỉ có
các Dòng sau đây được phép nhận hội viên Dòng Ba: Phanxicô, Đaminh, Augustin,
Carmêlô, Tôi tớ Đức Mẹ, Chúa Ba ngôi, Prémontrés, Minimi, Đức bà chuộc kẻ làm
tôi, Biển đức. Như vậy, con số khá hạn hẹp, và chỉ giới hạn vào vài Dòng cổ
điển. Ngược lại, Bộ giáo luật hiện hành không còn đặt giới hạn như vậy. Điều
303 của bộ giáo luật 1983 cho phép tất cả các Dòng Tu (dù cổ hay tân, dù là nam
hay nữ) cũng đều có quyền kết nạp các giáo dân muốn tham gia vào linh đạo của
mình. Đó là nói trên nguyên tắc. Cần phải chờ một thời gian nữa thì mới biết
được điều luật này được áp dụng như thế nào.
Mặt khác, cũng nên biết rằng nhiều Dòng Tu, điển hình là Dòng Tên,
tuy vốn không có Dòng Ba, nhưng vẫn điều khiển nhiều phong trào đạo đức gíao
dân (thí dụ như trước đây gọi là Hiệp hội thánh mẫu, Hội tông đồ cầu nguyện,
Phong trào Linh thao, vv). Sau cùng, để kết thúc bài hôm nay, cần thêm một nhận
xét khác không kém phần quan trọng. Trong quá khứ, các phần tử Dòng Ba tìm đến
các Dòng Tu để tìm con đường nên thánh, và con đường nên thánh được diễn tả qua
việc hãm mình cầu nguyện.
Từ sau công đồng Vaticanô II, với cái nhìn mới về sứ mạng của các
tín hữu giáo dân, đường nên thánh của các giáo dân không thể chỉ giới hạn vào
việc hãm mình đền tội, đọc kinh cầu nguyện mà thôi, nhưng còn phải tìm cách đem
men Phúc âm vào các môi trường sinh sống: từ gia đình, nghề nghiệp, cho tới các
cơ chế kinh tế, chính trị. Hậu nhiên, Giáo hội mong đợi nơi các phần tử Dòng Ba
không phải chỉ là những chuyên viên đọc kinh cầu nguyện, nhưng còn là những
cộng sự viên của hàng giáo phẩm trong các sinh hoạt mục vụ giáo xứ (chẳng hạn:
dạy giáo lý, thăm viếng người bệnh tật), các công tác bác ái xã hội, cũng như
là những chứng tá tin mừng trong các môi trường giáo dục, lao động, chính trị.
Tại Italia, người ta đang tiến hành thủ tục phong thánh cho ông Giorgio La
Pira, một hội viên Dòng Ba Đaminh, nguyên thị trưởng thành phố Firenze
(1904-1977). Giữa thời chiến tranh nóng bỏng tại Việt Nam, ông đã đưa ra chủ
trương đàm phán. Nếu tôi không lầm, thì ông là chính khách đầu tiên của khối
Tây phương đi gặp chủ tịch Hồ chí Minh tại Hà nội, vào tháng 8 năm 1965, để tìm
cách bắt nhịp cầu.
-----------------------------
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Học Viện Đa Minh