CHÚA CHỌN GALILÊ
1. Địa lý miền đất Palestina
Địa dư đất nước Palestina có ranh giới: Đông giáp sa mạc
Syria và Ảrập, Tây giáp Địa Trung Hải, Bắc giới hạn từ thung lũng núi Liban
chạy đến núi Hermon, Nam giáp ranh Iđumê, miền đất
hoang vu Bersabê và Biển Chết.
Cựu Ước thường dùng kiểu nói “từ Đan đến
Bersabê” để chỉ miền đất Do Thái cư ngụ. Chiều dài từ chân núi Liban tới
Bersabê là 230km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến sông Giođan là 37-150km. Diện
tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông (Transjordanie) là
9482 km2. Tổng cộng là 25.124km2.
Palestina
thời Chúa Giêsu chia làm bốn miền: Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth. Samaria nằm giữa xứ
Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc. Giuđêa là miền núi có thủ đô
Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan. Phía Bắc là
miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn
hóa Hy Lạp.
Palestina có địa lý đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm
hai miền: Palestina và Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy
nhất trên địa cầu: bắt đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina,
rồi tiếp tục theo phía Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao
hơn Địa trung hải 550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tiberiade thấp hơn
Địa Trung Hải 208m; tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát
nguồn từ núi Hermon, chạy qua hồ El-Hule (dài 6.000m, sâu từ 3-5m), rồi qua hồ
Tiberiade, đổ vào Biển Chết.
Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m,
nước trong xanh và nhiều cá. Biển Chết dài 85km, rộng 16km, nước biển độ mặn
quá cao nên không vật nào có thể sống được.
Miền duyên hải từ núi Libanô đến núi Camêlô,
rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và thẳng với
các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa.
Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon phì nhiêu. Từ
Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin (danh xưng
Palestina xuất phát từ chữ này).
Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai
phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền
Galilê: phía Bắc nhiều núi, Nam
là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi thấp dần
về phía sông Giođan.
Bên
kia sông Giođan (Transjordanie) là
miền đồi núi, chia làm 3 phần: Trachonitide thuộc Đông-Bắc hồ Tiberiade. Miền
Thập tỉnh phía Đông-Nam hồ. Pêrêa thuộc phía Đông sông Giođan và Biển Chết, đối
diện với Samaria
và Giuđêa.
Người Do Thái không chiếm cứ hoàn toàn miền bên
kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy
hóa, từ sau cuộc chinh phục của Alexandre đại đế, nhiều người Hy Lạp đến đây cư
ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập thành miền Thập Tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh
với nhau. Các thành nổi tiếng hơn cả là Đamascô, Hippos, Gadara,
Gerasa, Pella, Philadelphia.
Thủ đô Giêrusalem là trung tâm chính trị và tôn
giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân
tộc Do Thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước người ta đổ về Giêrusalem để dự
lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, có dinh của Thầy Cả Thượng Phẩm,
có các Luật Sĩ, Pharisêu, văn nhân. Dân chúng ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ
duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samari là dân ngoại vì
dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim. Dân Giuđê không bao giờ đi lại
tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân Galilê vì đó là nơi pha tạp mọi
sắc dân, là đất của dân ngoại.
Giuđê là vùng có đạo toàn tòng, là trung tâm của
đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa vùng có đạo và vùng ngoại đạo.
Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại
bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân
ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê, bị coi là ở bên lề của cộng đồng
Dân Chúa. Đối với dân thủ đô,
Galilê chỉ là tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật
đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một
dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong
phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…
2. Chúa chọn Galilê
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu không chọn
rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê.
Galilê không rộng lắm, từ Bắc chí Nam dài khoảng 60km, dân cư sống
đông đúc. Đất hẹp người đông. Thời Josephus
làm tổng trấn, đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê
không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt.
Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như
sau: “Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản
tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và
phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã.
Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”.
Đặc tính bẩm sinh của người Galilê giúp việc
truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới
cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này
mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo. Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt
của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu
rao giảng tại Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau, chung sống hòa
bình.
Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây,
Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin Mừng, chọn gọi các Tông Đồ, tuyên bố Luật
mới. Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu rao giảng tại Galilê
của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16).
Sự chọn lựa miền đất Galilê có một ý nghĩa
quan trọng theo Tin Mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời Ngôn Sứ Isaia nói: "Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con
đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại
! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những
kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu
rọi".
Khi trích dẫn Isaia, Mátthêu có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục
theo ý muốn của Chúa Cha, Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng
phục cao cả, to lớn và kỳ diệu, được đảm nhận với tự do và tình yêu. Mátthêu
cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của Dân
Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một
miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi
mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa
thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những
người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.
3. Chúa Giêsu chọn các môn đệ đầu tiên ở Galilê
Bài Tin Mừng
Chúa Nhật hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển
hồ Galilê.
Chúa Giêsu đã gọi và chọn các Tông Đồ là những
người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn những người ưu tú trong đám
trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới phải. Tại sao Chúa lại chọn
những người làm nghề chài lưới ? Phải chăng Người ngụ ý dạy các môn đệ phải
luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng của mình, nghĩa là rời bỏ
cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra khơi, giữa đại dương mênh
mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế giới rộng lớn và xa lạ để
cứu vớt thế giới ?
Chúa Giêsu kêu gọi các Tông Đồ không phải trong
khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh... Nhưng ở giữa đời
sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp. Các môn
đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có, không địa vị, nhưng đối
với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Người.
Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi; sự hòa đồng
giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối
diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp
họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi số
phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là
khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc gặp gỡ làm nên những huyền diệu
trong lịch sử nhân loại.
Các ngài gặp gỡ và bước theo Chúa để học nơi Chúa.
Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời
Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người không những chỉ dạy cho cách sống mới
mà chính Người là Sự Sống. Người
không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường
Sự Sống", mà chính Người là
Đường Sự Sống, là Ánh Sáng.
Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các
ngài được sống thân mật với Chúa. Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa.
Đó là hành trình ơn gọi của các Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi
Kitô hữu.
4. Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên
Galilê là vùng ngoại biên xa trung tâm Giêrusalem. Galilê là khởi
điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin Mừng, chọn
gọi các Tông Đồ, tuyên bố Luật mới.
Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng
nghèo. Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia xẻ với thế giới những
người ngoại biên. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người
nghèo, người tội lỗi và người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời
Ngôn Sứ Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi. Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4, 17-20). Người
cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để
kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13).
Chúa Giêsu muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không
có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người
nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ,
các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem...
Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực
sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai
thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần
gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia xẻ những nỗi đau của họ,
Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và
tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết
thay cho họ, và cho mọi người. Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở
điểm hiến thân trên thập giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người
được tôn vinh. Người muốn các môn đệ hãy theo gương Người, đem Tin Mừng đến cho
người nghèo khổ như vậy.
Hiện
nay, Mẹ Têrêxa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng
Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối
mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là làm chứ không chỉ
nói. (x. Tin Mừng cho người ngoại biên, Gm. Bùi Tuần).
Thời nay, nói theo ngôn ngữ của Gm. Giuse Đặng Đức
Ngân, những biên cương mới mà Giáo Hội đang quan tâm không chỉ trên phương
diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa
là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng
chạm đến. Các biên cương cần quan tâm chính là sự cộng tác của mọi
thành phần trong Giáo Xứ, là mục vụ hôn nhân gia đình, mục vụ sau khi
kết hôn, chăm sóc và bảo vệ thai nhi, mục vụ bác ái truyền giáo, mục vụ truyền
thông và mục vụ di dân.
Chúa
đến với những biên cương mới dẫu cho
khó khăn hay thập giá. Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung
và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc
"chinh phục các linh hồn" cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta
không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người
và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta
không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường
sống của mình làm "vùng đất ngoại bang", và noi gương của Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới mà Chúa sai chúng ta
đến.
Cảm
nghiệm sâu xa bước chân Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên. Đức Thánh Cha
Phanxicô viết: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì
đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào
sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở
vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi
ám ảnh và thủ tục.” (Niềm vui Tin Mừng số 49).
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN